Tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng đầu năm 2020 tỉnh Nghệ An

Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An 9 tháng đầu năm 2020, diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái do tác động trực tiếp của đại dịch viêm đường hô hấp Covid-19. Đồng thời, tình hình kinh tế trong nước cũng chịu tác động không nhỏ, có xu hướng tăng trưởng chậm lại với các yếu tố rủi ro và thách thức gia tăng. Bên cạnh đó, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng, ngành chăn nuôi gặp nhiều khó khăn với dịch tả lợn châu Phi lây lan trên diện rộng và chưa có dấu hiệu dừng lại, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực tăng trưởng chậm lại, giải ngân vốn đầu tư công thấp. Trước tình hình đó, Lãnh đạo tỉnh nhà đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp, đồng thời ban hành các chương trình hành động, văn bản chỉ đạo cụ thể, tăng cường đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động. Khẩn trương, sáng suốt chỉ đạo các sở, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp vừa phòng chống dịch Covid-19 vừa phát triển kinh tế, ổn định xã hội.

                Trên cơ sở rà soát kết quả đánh giá lại số liệu quý II, 6 tháng và số liệu 8 tháng năm 2020, Cục thống kê tỉnh Nghệ An ước tính số liệu tháng 9, tổng hợp chung kết quả thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội chủ yếu 9 tháng đầu năm 2020 như sau:

A.    TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP)

(Theo giá so sánh 2010)

 

9 tháng/2020       (Tỷ đồng)

So sánh với cùng kỳ năm trước (%)

Mức đóng góp vào tăng trưởng chung (%)

Tổng số

61.472

103,44

3,44

- Nông, lâm nghiệp, thủy sản

14.149

104,76

1,08

- Công nghiệp - xây dựng

18.870

106,92

2,06

- Dịch vụ

25.455

100,83

0,35

- Thuế sản phẩm – trợ cấp sp

2.998

99,02

-0,05

Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) quý III năm 2020 theo giá so sánh 2010 ước đạt 21.038 tỷ đồng, tăng 4,89% so với cùng kỳ năm 2019. Tính chung 9 tháng năm 2020 tổng sản phẩm trong tỉnh theo giá so sánh 2010 ước đạt 61.472 tỷ đồng, tăng 3,44%, trong đó khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản ước đạt 14.149 tỷ đồng, tăng 4,76%; khu vực Công nghiệp - xây dựng ước đạt 18.870 tỷ đồng, tăng 6,92% (trong đó công nghiệp tăng 4,29%); khu vực dịch vụ ước đạt 25.455 tỷ đồng, tăng 0,83% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm ước đạt 2.998 tỷ đồng, giảm 0,98%.

Trong 3,44% mức tăng trưởng chung, khu vực Nông, lâm nghiệp, thủy sản đã đóng góp 1,08 điểm %; khu vực Công nghiệp – xây dựng đóng góp 2,06 điểm %; khu vực dịch vụ đóng góp 0,35 điểm %; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm -0,05 điểm %.

Khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng khá, giá trị tăng thêm tăng 4,76% so cùng kỳ năm 2019. Do sản phẩm 9 tháng đầu năm tăng khá chủ yếu như: cây Lúa ước đạt 872.079 tấn, tăng 2,13%; sắn công nghiệp 15.892 tấn, tăng 73,43%; Rau các loại 475.714 tấn, tăng 3,67%; Đỗ các loại 3.368 tấn, tăng 4,12%; … bên cạnh đó ngành chăn nuôi vẫn phát triển khá, sản lượng xuất chuồng tăng nên đã đóng góp đáng kể vào mức tăng của khu vực I. Còn lại 2 ngành lâm nghiệp và thủy sản tuy tỷ trọng ít hơn cũng có mức tăng khá, trong đó ngành lâm nghiệp tăng 6,17% do trong kỳ sản lượng lâm sản khai thác tăng so với cùng kỳ năm trước và ngành thủy sản tăng 9,12% do sản lượng nuôi trồng và đánh bắt tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước.

Khu vực Công nghiệp - xây dựng, giá trị tăng thêm tăng 6,92% so cùng kỳ năm 2019, trong đó ngành công nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19, Nghị định 100/CP, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, hạn hán thiếu nước phục vụ cho sản xuất điện, thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, thiếu nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất,… nên sản lượng giảm như bia đóng chai, bia đóng lon, điện sản xuất,  nên ngành công nghiệp chỉ tăng 4,29%.

Ngành xây dựng phát triển nhanh với mức tăng 10,46% do trong kỳ có 1 số công trình lớn đang thi công như: cầu Cửa Hội bắc qua sông Lam, Chung cư Trung Đô, Chung cư CT4 thuộc khu đô thị Vinh Tân, Chung cư Trường Thành, chung cư Sài Gòn Sky, Chung cư tái định cư thuộc dự án cải tạo khu B khu chung cư Quang Trung. Đường nối QL1A đi Thị xã Cửa Lò đoạn Quán Hành - Chợ Sơn, huyện Nghi Lộc; Công trình cầu vượt nút giao thông đường D4 Khu kinh tế Đông Nam nối QL1A, công trình cung cấp vật tư thiết bị và thi công cấp điện hệ thống cấp điện tại khu đô thị VSIP Nghệ An, …

Khu vực dịch vụ bị ảnh hưởng nặng nề do đại dịch Covid-19, Nghị định 100, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung nên làm cho mức tăng của khu vực này chỉ đạt 0,83%. Trong đó: giá trị tăng thêm của ngành bán buôn, bán lẻ giảm 1,64%; vận tải, kho bãi giảm 1,47%; dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 25,77%; ...  

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 0,98% so cùng kỳ năm 2019, do nhiều sắc thuế thu giảm như: Thu từ doanh nghiệp Trung ương quản lý, giảm 27,59%; Thu từ doanh nghiệp Địa phương quản lý, giảm 14,42%; Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 7,76%, Thu từ khu vực CTN-DV ngoài quốc doanh, giảm 15,11%; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm 34,82%; …

Cơ cấu kinh tế 9 tháng năm 2020 như sau: Ngành Nông, lâm nghiệp, thủy sản chiếm 26,53%; ngành Công nghiệp, xây dựng chiếm 27,60%; ngành Dịch vụ chiếm 41,02%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,85%.

2. Tài chính, ngân hàng

Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh 9 tháng đầu năm 2020 ước đạt 11.059 tỷ đồng, bằng 72,68% dự toán cả năm và giảm 1,75% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó thu nội địa ước đạt 10.259 tỷ đồng, bằng 76,47% dự toán và tăng 2,30%. Tình hình cụ thể một số khoản thu: Thu từ doanh nghiệp Trung ương ước đạt 371 tỷ đồng, giảm 27,59%; Thu từ doanh nghiệp Địa phương ước đạt 81 tỷ đồng, giảm 14,42%; Thu từ DN có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 161 tỷ đồng, giảm 7,76%; Thu từ khu vực CTN-DV ngoài quốc doanh bằng ước đạt 3.012 tỷ đồng bằng 59,41% dự toán, giảm 15,11%; …

Tổng chi ngân sách 9 tháng ước đạt 19.824 tỷ đồng, bằng 73,10% dự toán. Trong đó chi đầu tư phát triển ước đạt 5.540 tỷ đồng, bằng 84,05% dự toán; Chi thường xuyên 13.837 tỷ đồng, bằng 68,92% dự toán. Chi thường xuyên chủ yếu tập trung chi lương và các khoản có tính chất lương, đảm bảo hoạt động có tính chất thường xuyên của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, chi chống dịch Covid-19 và thực hiện chính sách an sinh xã hội cũng như phát triển kinh tế. Các khoản chi quan trọng trong chi thường xuyên đều bảo đảm như: Chi sự nghiệp kinh tế 1.331 tỷ đồng, bằng 67,79% dự toán; chi sự nghiệp giáo dục đào tạo 5.752 tỷ đồng, bằng 67,16% dự toán; chi sự nghiệp y tế 1.705 tỷ đồng, bằng 74,06%; chi quản lý hành chính 2.605 tỷ đồng, bằng 71,08% dự toán, chi đảm bảo xã hội 785,6 tỷ đồng, bằng 67,05% dự toán; chi dự phòng để chóng dịch Covid-19 là 446,9 tỷ đồng, bằng 100% dự toán.

Nguồn vốn huy động trên địa bàn tính đến ngày 30/9/2020, không tính Ngân hàng phát triển ước đạt 158.644 tỷ đồng so với đầu năm 2020, tăng 18.416 tỷ đồng (+13,1%).

Đến 30/9/2020 tổng dư nợ của các TCTD trên địa bàn ước đạt 212.542 tỷ so với đầu năm tăng 3.857 tỷ đồng (+1,85%); tổng dư nợ không tính Ngân hàng phát triển ước đạt 195.369 tỷ so với đầu năm tăng 4.765 tỷ đồng (+2,5%), trong đó dư nợ trung dài hạn chiếm 49% tổng dư nợ, dư nợ bằng VNĐ chiếm 98,4% tổng dư nợ.

Tỷ lệ nợ xấu của toàn địa bàn luôn giữ ở mức thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước, ngành Ngân hàng Nghệ An luôn kiểm soát tốt nợ xấu trên địa bàn. Đến 30/9/2020, nợ xấu của các ngân hàng trên địa bàn ước là 2.002 tỷ, chiếm 0,94% trên tổng dư nợ; nợ xấu của các ngân hàng trên địa bàn không tính Ngân hàng Phát triển ước là 1.991 tỷ, chiếm 1,02% trên tổng dư nợ.

3. Giá cả thị trường

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 năm 2020 tăng 0,10% so với tháng trước, giảm 0,08% so với tháng 12 năm trước và tăng 3,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong số 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có 8 nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng so với tháng trước đó là: may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,24%; Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 0,21%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,19%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,01%; giao thông tăng 0,05%; bưu chính viễn thông tăng 0,07%; giáo dục tăng 1,03%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,12%. Bên cạnh đó, có 3 nhóm hàng giảm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,06%; đồ uống và thuốc lá giảm 0,20%; văn hóa, giải trí, du lịch giảm 0,19%.

Bình quân chung 9 tháng đầu năm chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,33% so với cùng kỳ năm trước, tăng mạnh nhất là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 10,62%; giáo dục tăng 4,45%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 2,74%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,73%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,14%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,19%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,97%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,90%. Bên cạnh đó, có nhóm hàng hóa giảm là: giao thông giảm 8,96%; Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,56%; bưu chính viễn thông giảm 0,08%. 

Chỉ số giá vàng tháng 9/2020 so với tháng trước tăng 0,44%, so với tháng 12/2019 tăng 30,22%, so với cùng kỳ năm trước tăng 29,08%; chỉ số đô la Mỹ tháng 9/2020 tăng 0,04% so với tháng trước, so với tháng 12/2019 giảm 0,03%, so với cùng kỳ năm trước tăng 0,25%.

4. Đầu tư và xây dựng

                Từ đầu năm đến nay, lĩnh vực đầu tư xây dựng phát triển khá có nhiều công trình lớn khởi công và thực hiện trên các công trình chuyển tiếp. Vốn đầu tư phát triển quý III/2020 thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước ước đạt 4.901 tỷ đồng, tăng 12,78%, trong đó: Vốn trung ương quản lý ước đạt 1.846 tỷ đồng, tăng 5,07%; vốn địa phương quản lý ước đạt 3.055 tỷ đồng, tăng 18,01%.  Tính chung 9 tháng đầu năm ước đạt 11.887 tỷ đồng, tăng 9,79% so với cùng kỳ năm 2019.

                Ước tính tổng vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn quý III/2020 đạt 22.617 tỷ đồng đưa 9 tháng năm 2020 ước đạt 56.135 tỷ đồng, tăng 12,15%. Phân theo khoản mục đầu tư: vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý III ước đạt 20.307 tỷ đồng đưa 9 tháng 2019 ước đạt 49.938 tỷ đồng, chiếm 88,96% tổng vốn, tăng 11,36%; Vốn đầu tư mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất không qua XDCB ước đạt 2.701 tỷ đồng, tăng 25,87%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp TSCĐ ước đạt 2.595 tỷ đồng, tăng 37,81%; Vốn đầu tư bổ sung vốn lưu động ước đạt 573 tỷ đồng, giảm 35,80%...

Các công trình, dự án lớn thực hiện trong kỳ: Đường cao tốc Bắc - Nam, hồ chứa nước Bản Mồng, cầu Cửa Hội bắc qua sông Lam, Xây nhà tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh tại khu di tích Kim Liên, Phát triển đô thị loại vừa tại Việt Nam - Tiểu dự án thành phố Vinh, đường từ Thị trấn huyện Thanh Chương đi vào khu tái định cư thủy điện Bản Vẽ huyện Thanh Chương, Tiểu dự án 3, dự án sửa chữa, nâng cao an toàn đập WB8, Khu liên hợp sản xuất vật liệu xây dựng công ty Trung Đô, dây chuyền sản xuất mỳ ăn liền Omachi của Masan, trang trại chăn nuôi lợn tại Quỳ Hợp của công ty MNS Farm, dự án nâng cấp mở rộng nhà máy nước Cửa Lò, nhà máy xi măng Tân Thắng, nhà máy may An Hưng ở huyện Yên Thành, nhà máy thủy điện Châu Thôn, Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP Nghệ An (GĐ1), dự án đầu tư khu công nghiệp WHA Hemaraj 1- Nghệ An, nhà máy Em-tech Vinh, …

Trong 9 tháng đầu năm 2020 (tính đến ngày 15/9/2020), KKT Đông Nam và các Khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu hút được 15 dự án, giảm 21% so cùng kỳ năm 2020, với tổng vốn cấp mới đạt 2.268 tỷ đồng, tăng 7%, trong đó: có 05 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 58,18 triệu USD, 10 dự án đầu tư trong nước, tổng vốn đăng ký 924 tỷ đồng; Điều chỉnh tăng vốn cho 11 dự án, tổng vốn đăng ký điều chỉnh tăng thêm: 6.086 tỷ đồng.

                5. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Tính chung 9 tháng đầu năm 2020, trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 1.326 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 4,74% so với cùng kỳ; tổng số vốn các doanh nghiệp đăng ký luỹ kế từ đầu năm đạt 10.963 tỷ đồng, giảm 4,57% so với cùng kỳ; đồng thời có 494 doang nghiệp đăng ký hoạt động trở lại sản xuất kinh doanh; do tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn nên có doanh nghiệp giải thể trong 9 tháng đầu năm là 89 doanh nghiệp. Số lần doanh nghiệp thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh 9 tháng là 1.732 lần, tăng 9,69%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng đạt 100%

6. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tình hình sản xuất nông nghiệp Quý III và 9 tháng đầu năm 2020 diễn ra trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, thị trường tiêu thụ sản phẩm không ổn định, gặp nhiều khó khăn; kết quả sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào thời tiết khí hậu và bị ảnh hưởng bởi các loại dịch, sâu bệnh…

                6.1. Sản xuất nông nghiệp

a. Trồng trọt

                Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 9 tháng năm 2020 ước đạt 268.997,1 ha, giảm 0,94% so với cùng kỳ năm 2019, cụ thể như sau:

                Cây lúa diện tích gieo cấy ước đạt 151.318,1 ha, giảm 0,92% so với cùng kỳ năm 2019, năng suất ước đạt 57,63 tạ/ha, tăng 0,90%. Sản lượng ước đạt 872.079 tấn, tăng 2,13%. 

                Cây ngô diện tích gieo trồng ước đạt 40.858,6 ha, tăng 1,92% so cùng kỳ năm 2019, năng suất ước đạt 45,45 tạ/ha, giảm 4,42%, sản lượng ước đạt 185.720 tấn, giảm 1,33%.

                Cây khoai lang diện tích gieo trồng ước đạt 3.053 ha, giảm 7,35% so với cùng kỳ năm 2019, năng suất ước đạt 69,50 tạ/ha, sản lượng ước đạt 21.218 tấn, giảm 8,06%. Cây sắn, diện tích ước đạt 674 ha. Cây mía, diện tích ước đạt 143 ha…

Cây rau, đậu các loại và hoa diện tích gieo trồng ước đạt 34.130 ha, tăng 2,47% so với 9 tháng năm 2019, trong đó: Rau các loại diện tích 30.508 ha; năng suất ước đạt 155,93 tạ/ha; sản lượng ước đạt 47.5714 tấn, tăng 3,67%.

                Tổng diện tích cây lâu năm 9 tháng/2020 ước đạt 48.656 ha, giảm 0,40% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó cây ăn quả ước đạt 22.134 ha, giảm 0,45%, một số cây lâu năm có sản lượng đạt khá như chuối 60.214 tấn, tăng 4,56%; dứa 26.167 tấn, tăng 4,94%; cam 31.603 tấn, tăng 9,09%; chanh 11.297 tấn, tăng 3,07%; bưởi 7.789 tấn, tăng 12,43%; cao su 4.425 tấn, tăng 6,88%; Chè búp 52.762 tấn, tăng 3,72%; … Còn lại các cây trồng khác phát triển bình thường.

                b. Chăn nuôi

                Tổng đàn trâu tính đến tháng 9 năm 2020 ước đạt 269.950 con, giảm 1,02% (-2.790 con) so cùng kỳ năm 2019. Đàn bò ước đạt 479.536 con, tăng 1,43% (+6.764 con); trong đó bò sữa 61.322 con, tăng 6,55% (+3.767 con). Nguyên nhân so với cùng kỳ năm trước tổng đàn trâu giảm do diện tích đồng cỏ bị thu hẹp, chương trình cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp ngày càng mở rộng thay cho sức kéo của đàn trâu, trâu chủ yếu là trâu thịt; tổng đàn bò tăng do thịt bò trở thành thực phẩm ưa chuộng trong đời sống của người dân, hiệu quả kinh tế cao. Sản lượng trâu hơi xuất chuồng 9 tháng ước đạt 13.018 tấn, tăng 1,89% (+241 tấn); sản lượng bò hơi chuồng 9 tháng ước đạt 18.224 tấn, tăng 3,38% (+596 tấn).

Tổng đàn lợn tính đến tháng 9/2020 ước đạt 897.414 con, giảm 1,66% (-15.186 con), tổng đàn lợn giảm do dịch tả lợn châu Phi diễn ra trên diện rộng và kéo dài từ những tháng đầu năm. Sản lượng lợn xuất 9 tháng ước đạt 106.220 tấn, giảm 0,97% (-1.037 tấn).

Tổng đàn gia cầm tính đến tháng 9/2020 ước đạt 27,23 triệu con, tăng 8,93% (+2,23 triệu con) so với cùng kỳ năm 2019, trong đó đàn gà 22,5 triệu con, tăng 9,70% (+1,99 triệu con). So với cùng kỳ năm 2019 đàn gia cầm có xu hướng tăng là do nhu cầu tiêu dùng thịt gia cầm ngày càng cao, do đàn lợn có dịch nên người dân chuyển sang tiêu dùng các loại thịt khác thay thế trong đó có thịt gia cầm.

Từ lúc xuất hiện dịch tả lợn châu Phi đến nay, bệnh dịch diễn biến rất phức tạp, mầm bệnh đã xâm nhiễm vào một số gia trại chăn nuôi, số lượng lợn mắc bệnh buộc tiêu hủy tăng, đặc biệt tại các huyện có tổng đàn lợn lớn, mật độ chăn nuôi cao. Tính đến thời điểm 15/9/2020 trên địa bàn tỉnh, dịch tả lợn Châu Phi đang xảy ra tại một số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ chưa qua 21 ngày (60 hộ/23 xóm/18 xã/6 huyện) gồm: huyện Kỳ Sơn - 54 con/20 hộ ở 2 xóm tại 2 xã Mỹ Lý, Na Loi; huyện Nghi Lộc – 80 con/9 hộ ở 9 xóm tại 7 xã Nghi thịnh, Nghi Trung, Quán Hành, Nghi Hoa, Nghi Quang, Nghi Diên, Nghi Long; huyện Hưng Nguyên – 71 con/15 hộ ở 6 xóm tại 4 xã Hưng Nghĩa, Hưng Trung, Hưng Lỹ, Xuân Lam; huyện Quế Phong ở 3 xóm tại 2 xã Châu Thôn, Châu Kim; thành phố Vinh – ở 2 xóm tại xã Nghi Kim, phường Cửa Nam; huyện Quỳnh Lưu ở 1 xóm của xã Quỳnh Tam, số lợn ốm buộc tiêu hủy là 257 con.

                6.2. Sản xuất lâm nghiệp

                Diện tích trồng rừng tập trung ước thực hiện quý III là 4.216 ha, giảm 12,29%; tính chung 9 tháng năm 2020 ước đạt 11.343 ha, giảm 2,13% (-247 ha) so cùng kỳ năm 2019. Số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước đạt 4,3 triệu cây, giảm 1,03% (-45 nghìn cây). Chăm sóc rừng: Các tổ chức, hộ dân đang tiến hành chăm sóc rừng lần 2 đối với diện tích rừng trồng năm thứ nhất và năm thứ 2, thứ 3 đúng tiến độ, diện tích ước đạt 54.686 ha, giảm 3,63% (-2.062 ha). Khoanh nuôi rừng: Đang tổ chức triển khai khoanh nuôi tái sinh rừng đúng tiến độ với diện tích ước đạt 61.122 ha.

                Tổng sản lượng gỗ khai thác quý III ước đạt 368.297 m3, tăng 18,04% so cùng kỳ quý III năm 2019; tính chung 9 tháng/2020 ước tính đạt 935.684 m3 tăng 11,77% (+98.516 m3) so với cùng kỳ. Củi khai thác 9 tháng đầu năm ước đạt 855.797 ste tăng 0,98% (+8.288 ste).

                Tính chung 9 tháng đầu năm xẩy ra 19 vụ cháy rừng, giảm 24% (-6 vụ) so với cùng kỳ 9 tháng đầu năm 2019, diện tích có rừng bị thiệt hại: 41,39 ha giảm 11,28% (-5,26 ha); Tính đến 9 tháng đầu năm đã phát hiện xử lý 399 vụ vi phạm lâm luật giảm 13,26% so cùng kỳ, thu nộp ngân sách 3,43 tỷ đồng.

6.3. Sản xuất thủy sản

                Diện tích 9 tháng đầu năm ước đạt 20.979 ha, tăng 0,11% (+24 ha) so cùng kỳ năm 2019, chia ra: diện tích nuôi cá 18.510 ha, diện tích tôm 2.238 ha, diện tích thủy sản khác 231 ha.

                Tổng sản lượng thủy sản trong quý III ước đạt 65.327 tấn, tăng 9,51%; tính chung sản lượng thủy sản trong 9 tháng/2020 ước đạt 186.446 tấn, tăng 9,53% (+16.221 tấn) chia ra: sản lượng khai thác ước đạt 141.062 tấn, tăng 11,17% (+14.177 tấn); sản lượng nuôi trồng ước đạt 45.384 tấn, tăng 4,72% (+2.044 tấn).

                Nhằm phục vụ cho nhu cầu nuôi trồng thủy sản, việc sản xuất con giống trong quý III năm 2020 ước đạt 367 triệu con, tăng 1,10% (+4 triệu con) so cùng kỳ quý III năm 2019; tính chung 9 tháng/2020 ước đạt 3.094 triệu con, chia ra: cá 513 triệu con, tôm 2.396 triệu con, thủy sản khác 44 triệu con.

                7. Sản xuất công nghiệp

                 Chỉ số sản xuất công nghiệp quý III ước đạt 10,90%, tính chung 9 tháng, tăng 4,29% so với cùng kỳ năm 2019. Nguyên nhân tăng thấp do tác động của đại dịch Covid-19, Nghị định 100/CP, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, hạn hạn thiếu nước phục vụ cho các nhà máy phát điện trên địa bàn. Một số sản phẩm giảm sâu trong kỳ: đường RS ước đạt 95.226 tấn, giảm 9,96%; Bia đóng chai ước đạt 27,5 triệu lít, giảm 42,62%; Bia đóng lon 60,6 triệu lít, giảm 18,28%; Vỏ bào dăm gỗ ước đạt 325,7 nghìn m3, giảm 14,26%; Thùng carton ước đạt 17,6 triệu chiếc, giảm 29,78%; Hộp lon bia ước đạt 3.378 tấn, giảm 15,72%; … Bên cạnh đó có những sản phẩm tăng trong kỳ như: Sữa tươi ước đạt 154,3 triệu lít, tăng 4,41%; Sữa chua ước đạt 30.392 tấn, tăng 6,25%; Thức ăn cho gia súc ước đạt 107.153 tấn, tăng 6,80%; Xi măng ước đạt 5,2 triệu tấn, tăng 14,18%; Ống thép Hoa Sen ước đạt 20,9 nghìn tấn, tăng 12,55%; Tôn lợp ước đạt 574,3 nghìn tấn, tăng 25,12%; Cửa sắt 1.466 nghìn m2, tăng 25,29%; …

                Chỉ số sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí, quý III giảm 19,30%, tính chung 9 tháng/2020 giảm 20,76% so với cùng kỳ năm 2019. Nguyên nhân giảm do những tháng đầu năm thời tiết nắng nóng kéo dài, hạn hán làm cho lưu lượng nước trong các hồ chứa ở mức thấp kỷ lục nên sản lượng điện sản xuất giảm mạnh. Điện sản xuất 9 tháng ước đạt 1.680 triệu KWh, giảm 27,22%; Sản lượng Điện thương phẩm ước đạt 2.849 triệu KWh, tăng 7,92%.

                Chỉ số sản xuất công nghiệp ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải quý III tăng 3,64%, tính chung 9 tháng giảm 2,62% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó: sản phẩm Nước uống được đạt 22,7 triệu m3, tăng 0,41%, Dịch vụ thu gom rác thải ước đạt 45,1 tỷ đồng, giảm 10,65%; …

                8. Thương mại, dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hóa quý III/2020 theo giá hiện hành ước đạt 17.192 tỷ đồng, tăng 6,41% so với cùng kỳ năm 2019, đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa 9 tháng đầu năm 2020 ước đạt 47.981 tỷ đồng, tăng 2,35%. Trong đó: nhóm lương thực, thực phẩm ước đạt 16.376,5 tỷ đồng, tăng 9,76%; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình 6.175,5 tỷ đồng, tăng 3,80%; nhóm gỗ và vật liệu xây dựng 3.337 tỷ đồng, tăng 3,72%; ô tô các loại ước đạt 6.732 tỷ đồng, giảm 6,59%; phương tiện đi lại (trừ ô tô) ước đạt 3.533 tỷ đồng, tăng 4,10%; xăng dầu ước đạt 4.455 tỷ đồng, giảm 1,29% ...

Doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành quý III/2020 ước đạt 2.273,6 tỷ đồng, giảm 10,50% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành ước đạt 5.354,4 tỷ đồng, giảm 22,51%. Trong đó: dịch vụ lưu trú phục vụ 2,72 triệu lượt khách, giảm 46,93% (2,05 triệu lượt khách ngủ qua đêm, trong đó có 18,9 nghìn lượt khách quốc tế) với doanh thu 562 tỷ đồng, giảm 48,08%; dịch vụ ăn uống 4.734,6 tỷ đồng, giảm 16,99%; dịch vụ du lịch lữ hành 57,7 tỷ đồng, giảm 53,44%.

Doanh thu hoạt động dịch vụ khác (trừ dịch vụ lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành) quý III/2020 ước đạt 1.579,6 tỷ đồng, tăng 0,09% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng/2020 ước đạt 4.247 tỷ đồng, giảm 10,26%; trong đó: kinh doanh bất động sản ước đạt 1.625 tỷ đồng, giảm 6,24%; dịch vụ hành chính ước đạt 774 tỷ đồng, giảm 11,06%; dịch vụ y tế ước đạt 839 tỷ đồng, tăng 3,99%; dịch vụ vui chơi và giải trí ước đạt 230 tỷ đồng, giảm 38,47%…

Hoạt động kinh doanh vận tải quý III và 9 tháng năm 2020 tăng trưởng chậm. Do đại dịch Covid-19, một số địa phương phải thực hiện giãn cách xã hội, nên luân chuyển hành khách giảm, luân chuyển hàng hóa tăng chậm.

Vận chuyển hành khách quý III năm 2020 ước đạt 26,12 triệu lượt khách, tăng 6,70% so cùng kỳ năm 2019, khối lượng hành khách luân chuyển ước đạt 2.086,2 triệu lượt khách.km, tăng 5,97%. Tính chung 9 tháng khối lượng hành khách vận chuyển ước đạt 73,8 triệu lượt khách, giảm 7,59%; khối lượng hành khách luân chuyển 5.807,3 triệu lượt khách.km, giảm 4,95%.

Vận tải hàng hóa quý III năm 2020 ước đạt 30,9 triệu tấn, tăng 10,48% so cùng kỳ và khối lượng hàng hóa luân chuyển ước đạt 903,1 triệu tấn.km, tăng 9,67%. Tính chung 9 tháng đầu năm khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 88,6 triệu tấn, tăng 6,63% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hàng hóa 2.660,7 triệu tấn.km, tăng 5,63%.

Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải quý III năm 2020 ước đạt 2.669 tỷ đồng, tăng 5,53% so cùng kỳ năm 2019, đưa doanh thu 9 tháng ước đạt 7.651 tỷ đồng, tăng 1,90%, trong đó doanh thu vận tải hàng hóa 4.935 tỷ đồng, tăng 3,87%; doanh thu vận tải hành khách 1.692 tỷ đồng, giảm 5,82% và doanh thu bốc xếp, dịch vụ vận tải 1.024 tỷ đồng, tăng 6,47%.

B. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Lao động, việc làm, đời sống dân cư

Dân số tỉnh Nghệ An có hơn 3,33 triệu người, tỷ lệ tăng dân số hàng năm 1,33%, tức là hàng năm tăng khoảng 40 nghìn người; trong đó lực lượng lao động hơn hơn 1,9 triệu người đứng thứ 4 cả nước, hiện nay tỉnh đang ở trong thời kỳ “dân số vàng”, đây là lợi thế về nguồn lao động dồi dào nhưng cũng là thách thức khi giải quyết việc làm cho người lao động.

Trong 9 tháng đầu năm 2020, toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 26.276 người (đạt 70% kế hoạch; đạt 85.5% so với cùng kỳ năm 2019), trong đó: Lao động làm việc trong nước 20.308 người; Lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng: 5.968 người (đạt 43,5%  so với kế hoạch; đạt 60,8% so với cùng kỳ năm 2019). Số lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp 12.547 người, tổng số tiền trợ cấp 169.136 triệu đồng (đạt 125,53%  so với cùng kỳ 2019).

Tập huấn nâng cao năng lực cho 720 cán bộ làm công tác đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; tổ chức tiếp nhận 811 hồ sơ dự thi đăng ký tiếng Hàn Quốc trong ngành sản xuất, chế tạo năm 2020. Tổ chức khai giảng đào tạo ngoại ngữ cho 240 người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tộc thiểu số cư trú tại các huyện nghèo 30a, các xã bãi ngang ven biển và hải đảo để tham gia đi làm việc ở nước ngoài có thời hạn theo Quyết định 1722/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Tổ chức Hội nghị đối thoại giải đáp các chính sách về công tác đưa nguời lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng giữa người lao động và cơ quan quản lý nhà nước tại huyện Thanh Chương. Tổ chức Hội nghị triển khai kế hoạch thu thập, cập nhật thông tin thị trường lao động cho 250 cán bộ cấp huyện, xã, phường, thị trấn; Hội nghị tuyên truyền, tập huấn chính sách hỗ trợ cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài năm 2020. Tổ chức 10 phiên giao dịch cố định, 34 phiên giao dịch lưu động và 02 hội chợ việc làm giới thiệu việc làm và cung ứng khoảng 2.185 lao động, chấp thuận nhu cầu sử dụng LĐNN cho 36 đơn vị, cấp mới 96 giấp phép và cấp lại 61 giấp phép cho lao động nước ngoài làm việc tại Nghệ An. Cấp mới giấy phép Hoạt động dịch vụ việc làm cho 8 đơn vị và gia hạn cho 3 đơn vị được hoạt động dịch vụ việc làm tại tỉnh Nghệ An. Giới thiệu 30 doanh nghiệp được Bộ LĐTBXH cấp Giấy phép Hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồnghoạt động trên địa bàn tỉnh.

Phối hợp VCCI Nghệ An tổ chức 03 lớp tập huấn công tác ATVSLĐ cho hơn 60 doanh nghiệp và hơn 270 người lao động làm trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh; Phối hợp với Cục ATLĐ triển khai khảo sát, tập huấn, tư vấn xây dựng mô hình quản lý ATLĐ cho hơn 20 doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu và Thị xã Thái Hòa.

9 tháng đầu năm 2020 kinh tế - xã hội tỉnh nhà gặp nhiều khó khăn do bị ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, dịch tả lợn châu Phi, thiếu nước phục vụ cho sản xuất trong đó có sản xuất điện, thiếu thị trường tiêu thụ. Nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành khẩn trương và quyết liệt của Lãnh đạo tỉnh là vừa chống dịch vừa phát triển kinh tế nên nhìn chung đời sống của các tầng lớp dân cư được ổn định tuy nhiên vẫn còn gặp nhiều khó khăn ở một số bộ phận, nhất là những người làm công ăn lương, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, doanh nghiệp và những người thu nhập thấp.

Đối với hộ sản xuất nông nghiệp do thời tiết năm nay không được thuận lợi cùng với dịch bệnh ở vật nuôi (dịch tả lợn châu Phi, dịch cúm gia cầm…) nhưng do sự chủ động của bà con nông dân nên sản xuất nông nghiệp cơ bản đạt kế hoạch đề ra, tại thời điểm 15/9/2020 này, bà con nông dân đang thu hoạch lúa Hè thu nên không còn hộ đói xảy ra trên địa bàn tỉnh.

Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng: Tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 73 năm Ngày Thương binh - Liệt sĩ trên địa bàn tỉnh Nghệ An, các hoạt động kỷ niệm đã tạo ra phong trào rộng khắp, sức lan tỏa mạnh mẽ trong các tầng lớp nhân dân, các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị từ tỉnh đến cơ sở đối với công tác chăm sóc người có công với cách mạng được. Nhân dịp này, có 107.656 người có công và thân nhân người có công được tặng quà của Chủ tịch nước, của Tỉnh, huyện, xã và quà xã hội hóa, với tổng số tiền 24,4 tỷ đồng.  Hiện nay, toàn tỉnh có 86 Mẹ VNAH còn sống, có 01 Mẹ được phong tặng và 01 Mẹ được truy tặng danh hiệu vinh dự “Bà Mẹ Việt Nam anh hùng”; giải quyết chế độ chính sách cho 595 trường hợp hưởng trợ cấp thường xuyên, 298 trường hợp hưởng trợ cấp 1 lần và trợ cấp mai táng phí cho 3.271 trường hợp; Cấp đổi 613 Bằng Tổ quốc ghi công bị rách nát, hư hỏng; 12 Bằng Tổ quốc ghi công theo Thông tư 16/TT-BLĐTBXH.

Tính đến ngày 30/8, toàn tỉnh đã thu được trên 16,5 tỷ đồng cho Quỹ Đền ơn đáp nghĩa các cấp, đã hỗ trợ xây mới và sửa chữa  119  nhà tình nghĩa cho người có công với cách mạng, với tổng kinh phí  5,14 tỷ đồng. Tặng 52 sổ tiết kiệm cho người có công, với tổng số tiền: 261,5 triệu đồng.

Thực hiện điều dưỡng người có công năm 2020 là 24.675 đối tượng, số tiền 35,7 tỷ đồng, đã điều dưỡng tập trung cho 3.514 đối tượng, với số tiền 7,8 tỷ đồng.

Phối hợp tổ chức tiếp nhận, bàn giao, di chuyển, lấy mẫu sinh phẩm 57 hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh tại Lào mùa khô năm 2019 - 2020 về án táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Nghi Lộc.

Công tác giảm nghèo: Cấp 41.041 giấy chứng nhận hộ nghèo và 75.398 giấy chứng nhận hộ cận nghèo cho các huyện, thành, thị làm cơ sở thực hiện các chế độ, chính sách hỗ trợ giảm nghèo năm 2020. triển khai Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững năm 2020 với số tiền: 469 tỷ đồng, Trong đó: Vốn đầu tư phát triển: 343,74 tỷ đồng; vốn sự nghiệp: 125,26 tỷ đồng.

                Công tác Bảo trợ xã hội: Chi trả trợ cấp thường xuyên tại cộng đồng cho: 135.132 đối tượng, tổng số kinh phí chi trả 9 tháng đầu năm là hơn 486 tỷ đồng (tính đến thời điểm 10/8/2020). Tổng số đối tượng được chăm sóc, nuôi dưỡng tại các cơ sở BTXH là: 875 đối tượng.

               Dịp Tết nguyên đán Canh Tý năm 2020 tổ chức thăm, tặng quà cho các đơn vị trợ giúp xã hội, đối tượng người cao tuổi tiêu biểu và hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tổng kinh phí 18,6 tỷ đồng; tổ chức thực hiện tốt công tác chúc thọ mừng thọ đối với 51.181 người cao tuổi, kinh phí thực hiện 12 tỷ đồng.  Hỗ trợ 41.041 hộ nghèo ăn Tết, với mức hỗ trợ 150.000 đồng/hộ, kinh phí: 6,15 tỷ đồng; Hỗ trợ cho 829 đối tượng xã hội đang nuôi dưỡng tập trung ở 06 Trung tâm bảo trợ xã hội của tỉnh với kinh phí: 120,6 triệu đồng.

              Phân bổ gạo cứu đói cho nhân dân trong dịp Tết Nguyên đán Canh Tý năm 2020, với số lượng gạo phân bổ là 908 tấn gạo, cho 15.505 hộ với 60.560 nhân khẩu từ nguồn lương thực dự trữ Quốc gia; hỗ trợ người dân bị thiệt hại do dông lốc, mưa đá, hỏa hoạn gây ra trên địa bàn: hỗ trợ xây dựng 24 nhà, sửa chữa 30 nhà, 1 hộ gia đình có người bị thương với tổng kinh phí hỗ trợ là 932,7 triệu đồng.

Hưởng ứng Thư kêu gọi ủng hộ, giúp đỡ người nghèo đón tết Canh Tý 2020 và hoạt động hỗ trợ xã nghèo Miền Tây Nghệ An của các cơ quan, đơn vị, cá nhân trên địa bàn, tính đến ngày 28/8/2020, tổng số tiền mà các cơ quan, đơn vị ủng hộ, giúp đỡ các xã hơn 28,6 tỷ đồng;

                2. Giáo dục

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo. Nhìn chung chất lượng giáo dục có chuyển biến, việc giáo dục nhân cách, đạo đức cho học sinh tiếp tục được quan tâm; triển khai tích cực phổ cập giáo dục mầm non, trẻ mẫu giáo 5 tuổi; củng cố vững chắc chất lượng phổ cập giáo dục phổ thông; việc đánh giá chất lượng giáo dục ngày càng cao.

Kết quả học sinh giỏi quốc gia tiếp tục giữ vững tốp dẫn đầu của cả nước. Học sinh Nghệ An đã giành được 01 Huy chương Vàng Olympic Hóa học quốc tế, 01 học sinh tham gia đội tuyển dự thi Tin học Châu Á; có 82/102 học sinh đạt giải, trong đó có 13 giải Nhất, 31 giải Nhì, 25 giải Ba và 13 giải Khuyến khích.

Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 trên địa bàn tỉnh, đảm bảo an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế. Kết quả, điểm trung bình của Nghệ An đứng thứ 32 của cả nước (đã có sự chuyển biến tích cực, tăng 4 bậc so với kỳ thi THPT QG năm 2019).

Kết thúc năm 2019, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia là 1.104 trường, đạt tỷ lệ 72,6%.

Tổ chức Hội nghị điển hình tiên tiến ngành giáo dục và đào tạo giai đoạn 2015-2020. Ngành giáo dục Nghệ An vinh dự có 03 tập thể và 12 cá nhân được tôn vinh tại Đại hội thi đua yêu nước tỉnh Nghệ An giai đoạn 2015-2020; trong đó, có 02 đại biểu được tôn vinh, giới thiệu tham dự Đại hội Thi đua yêu n­ước toàn quốc lần thứ X.

Tổ chức Hội khỏe Phù Đổng tỉnh lần thứ XIX năm 2020 đã được tổ chức thành công tốt đẹp, để lại nhiều ấn tượng cho các đoàn dự thi. 2.546 vận động viên đã tham gia thi đấu với tinh thần quyết tâm cao, nỗ lực hết mình để dành kết quả tốt nhất, đặc biệt các em thi đấu trên tinh thần đoàn kết, học hỏi lẫn nhau, trung thực và cao thượng của thể thao học đường. Kết quả, đoàn vận động viên thành phố Vinh xếp thứ nhất, với  24 giải nhất, 19 giải nhì, 18 giải ba; đoàn vận động viên huyện Diễn Châu xếp thứ nhì, với 23 giải nhất, 14 giải nhì, 28 giải ba; đoàn vận động viên huyện Con Cuông xếp thứ ba, với 15 giải nhất, 13 giải nhì, 07 giải ba; đoàn vận động viên huyện Thanh Chương xếp thứ tư, với 14 giải nhất, 06 giải nhì, 17 giải ba.

Tổ chức Hội nghị Tổng kết năm học 2019-2020, triển khai nhiệm vụ năm học 2020-2021 của tỉnh và các huyện, thành phố, thị xã; tổ chức Khai giảng năm học mới tại tất cả cơ sở giáo dục đảm bảo đúng kế hoạch và thời gian quy định.

Ngày 19/9/2020, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An tổ chức lễ tuyên dương học sinh đạt giải quốc tế, quốc gia và đạt kết quả cao tại kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020 và trao thưởng với tổng số tiền hơn 1,4 tỷ đồng. Tại buổi lễ, ban tổ chức đã tổ chức tuyên dương và trao thưởng cho 119 em học sinh đoạt giải quốc tế, quốc gia và đạt kết quả cao tại kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2020. Trong đó, có 1 em đạt Huy chương Vàng tại Kỳ thi Olympic Hóa học Quốc tế năm 2020; 1 em vô địch Cuộc thi "Đường lên đỉnh Olympia", và 1 em đạt giải Nhất tại Cuộc thi “Tuổi trẻ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” cùng 69 em đạt giải học sinh giỏi quốc gia (từ giải nhất đến giải ba); bốn em đạt giải cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học; 36 học sinh đạt điểm cao trong kỳ thi tốt nghiệp THPT, 28,35 điểm trở lên ở năm tổ hợp xét tuyển Đại học; 7 học sinh người dân tộc thiểu số có điểm kế cận ở năm tổ hợp khối thi: A, B, C, D và A1.

3. Y tế

Tổ chức giám sát chặt chẽ các loại dịch bệnh; chủ động và tích cực phòng chống các bệnh truyền nhiễm gây dịch, khống chế có hiệu quả các bệnh truyền nhiễm gây dịch nguy hiểm, phát hiện sớm các trường hợp mắc bệnh đầu tiên, chủ động xử lý, không để dịch phát triển và lan rộng.  Tích cực chỉ đạo, kiểm tra, giám sát công tác phòng chống dịch bệnh viêm phổi cấp do chủng mới của vi rút Corona (COVID- 19) gây ra trên địa bàn tỉnh; thực hiện đồng bộ các giải pháp để phòng bệnh như: xây dựng kế hoạch, phương án sẵn sàng đối phó dịch bệnh; phun khử khuẩn, vệ sinh môi trường; chuẩn bị phương tiện, thiết bị, vật tư, hóa chất phòng chống dịch; theo dõi, cách ly các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm; thực hiện công tác truyền thông, tuyên truyền phòng chống dịch, bệnh; thành lập các tổ, đội dự bị động viên huy động ngành y tế, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ khi có tình trạng khẩn cấp do dịch bệnh gây ra. Tiếp tục duy trì củng cố và phát triển, hoàn thiện các kỹ thuật cao phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Tổ chức triển khai thực hiện phương án tự chủ tại các Bệnh viện (tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự, tài chính) đạt kết quả tốt.

Tăng cường công tác truyền thông đảm bảo an toàn thực phẩm; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên đán và mùa Lễ hội Xuân 2020. Nhờ vậy, đã giảm thiểu nguy cơ xảy ra các vụ ngộ độc thực phẩm so với năm trước.

Tuy nhiên trong kỳ các bệnh thông thường vẫn xảy ra, tháng 9/2020 tiêu chảy xảy ra 461 ca, giảm 36,59% so cùng kỳ tháng 9 năm 2019; sốt xuất huyết 24 ca; ngộ độc thực phẩm 1 vụ. Tính chung 9 tháng  tiêu chảy có 5.553 ca, giảm 18,27%; Sốt rét 50 ca, giảm 61,83%; sốt xuất huyết 442 ca, tăng 17,68 lần; ngộ độc thực phẩm 4 vụ, không tăng giảm so cùng kỳ. Nguyên nhân chính gây ra các vụ tiêu chảy và ngộ độc là do thời tiết, uống bia rượu nhiều, ăn các thức ăn chế biến có ướp hoá chất, rau hoa quả dử dụng hóa chất.

                Tình hình nhiễm HIV/AIDS: Đến ngày 31/7/2020 số người bị nhiễm HIV được phát hiện trên toàn tỉnh là 12.280 người, trong đó có 9.990 người trong tỉnh. Trong tổng số người nhiễm HIV đã có 7.146 người chuyển sang bệnh AIDS và đã tử vong 4.427 người.               

                4. Hoạt động Văn hóa – Thể thao

9 tháng đầu năm 2020 công tác văn hóa thông tin chủ yếu tập trung tuyên truyền, trang trí cổ động và tổ chức các hoạt động văn hóa phục vụ nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn của dân tộc như: Đại hội Đảng các cấp, hướng tới Đại hội XIII của Đảng; Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng; Kỷ niệm 90 năm ngày Xô Viết Nghệ Tĩnh; 65 năm ngày thầy thuốc Việt Nam 27/2; Ngày thành lập đoàn TNCS HCM 26/3; 110 năm ngày Quốc tế Phụ nữ; 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; 75 năm cách mạng tháng Tám và quốc khánh 2/9; … Tuyên truyền trong nhân dân nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị.

Tổ chức thành công các giải thi đấu: Giải cờ vua, cờ tướng các nhóm tuổi trẻ miền Trung mở rộng lần thứ XVIII năm 2020; giải Bóng chuyền hạng A quốc gia năm 2020; giải đua xe đạp Tranh cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh; Giải vô địch bi sắt toàn quốc; giải vô địch Kickboxing trẻ toàn quốc; Vòng chung kết giải bóng đá U13 toàn quốc...

Tổ chức Lễ phát động toàn dân tập luyện môn Bơi, phòng chống đuối nước và lớp tập huấn Bơi phòng chống đuối nước năm 2020 tại huyện Đô Lương và huyện Tân Kỳ; tổ chức ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân tỉnh Nghệ An và giải việt dã toàn tỉnh năm 2020; Tổ chức giải gia đình thể thao toàn tỉnh.

Các đoàn vận động viên thể thao thành tích cao tham gia thi đấu tham gia thi đấu 24 giải đạt 165 huy chương các loại ( 36HCV, 33HCB, 96HCĐ) trong đó, Giải Vô địch quốc gia đạt được 04HCV- 08HCB- 09HCĐ, Giải Vô địch Trẻ quốc gia đạt được 17HCV- 10HCB- 42HCĐ.

5. Trật tự, an toàn xã hội:

Trong quý III/2020 trên địa bàn tỉnh xảy ra 362 vụ, tăng 52,74%, bắt giữ 417 đối tượng phạm pháp kinh tế chủ yếu là buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu. Cộng dồn 9 tháng đầu năm đã xảy ra 1.204 vụ, tăng 7.89% với 1.346 đối tượng phạm pháp kinh tế, tăng 9,97% so cùng kỳ.

Phạm pháp hình sự quý III/2020 xảy ra 272 vụ với 413 đối tượng, tội phạm chủ yếu là trộm cắp, cướp giật tài sản công dân. Tính chung 9 tháng đầu năm xảy ra 900 vụ, giảm 4,76% (-45 vụ) với 1.375 đối tượng phạm pháp hình sự, giảm 9,66% (-147 người) so với cùng kỳ năm trước.

Quý III/2020 buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý xảy ra 367 vụ, tăng 49,19% (+121 vụ), với 447 đối tượng; mại dâm có 9 vụ bị phát hiện, tăng 4,5 lần với 33 đối tượng. Tính chung 9 tháng đầu năm buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý xảy ra có 783 vụ bị phát hiện, tăng 4,26% (+32 vụ) so vời cùng kỳ năm trước; bắt giữ 965 người, tăng 10,92% (+95 người); số đối tượng sử dụng ma túy bị phát hiện 640 người, tăng 34,17%; số đối tượng hoạt động mại dâm 67 người, tăng 52,27%.

 Trong quý III/2020 xẩy ra 101 vụ tai nạn giao thông, làm chết 36 người, bị thương 85 người, ước giá trị thiệt hại 3,4 tỷ đồng. Như vậy trong 9 tháng đã xẩy ra 286 vụ tai nạn giao thông, làm chết 114 người, bị thương 236 người, ước giá trị thiệt hại 7,7 tỷ đồng.

Tóm lại: Quý III và 9 tháng đầu năm 2020 nền kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An còn gặp nhiều khó khăn như kinh tế phát triển chậm hơn kịch bản đề ra, thấp nhất trong 10 năm trở lại đây, thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng, sức cạnh tranh của hàng hóa thấp, dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi. Nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành quyết liệt và kịp thời của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh cùng với sự cố gắng của cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể nhân dân nền kinh tế - xã hội tỉnh nhà tiếp tục ổn định và đạt được như sau: tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 tháng ước đạt 3,44 % so cùng kỳ năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 4,29%, tổng mức bán lẻ hàng hóa tăng 2,35%, thu ngân sách giảm 1,75%, chỉ số giá tiêu dùng tăng 3,33%. Hoạt động văn hóa sôi nổi, an ninh quốc phòng được đảm bảo.

Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, kinh tế thế giới còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định, khó lường. Trong 3 tháng còn lại của năm 2020, cùng với làm tốt công tác phòng chống dịch bệnh, các cấp, các ngành cần tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đây:

Một là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đồng bộ, toàn diện, thực chất hơn. Tập trung khai thác, phát huy tiềm năng lợi thế để phát triển nhanh, bền vững; nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bám sát các chủ trương của Quốc hội, Chính phủ về điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; dựa theo kịch bản tăng trưởng năm 2020 để tập trung chỉ đạo, nhất là những ngành, lĩnh vực so với kịch bản đang còn đạt ở mức thấp.

Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú trọng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, chế biến nông sản, liên kết chuỗi giá trị, bảo đảm đầu ra cho nông sản, tăng thu nhập cho nông dân. Tạo điều kiện để doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Đẩy nhanh tiến độ Chương trình xây dựng nông thôn mới, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án xây dựng nông thôn mới trên địa bàn 27 xã khu vực biên giới của tỉnh.

Ba là, tập trung chỉ đạo quyết liệt phát triển công nghiệp. Cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng phát triển những dự án sử dụng công nghệ mới, tiên tiến, đảm bảo về môi trường. Phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, công nghiệp hỗ trợ. Phát huy tối đa vai trò các ngành, sản phẩm công nghiệp chủ lực, công nghiệp có lợi thế cạnh tranh của tỉnh đã xác định như sữa, thủy điện, dệt may, MDF, xi măng, tôn Hoa Sen, linh kiện điện tử. Tiếp tục triển khai hiệu quả các dự án công nghiệp.

Bốn là, nâng cao hơn nữa vai trò của các ngành dịch vụ đối với phát triển kinh tế. Tập trung phát triển các ngành dịch vụ ứng dụng công nghệ hiện đại, giá trị gia tăng cao như bưu chính, viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... Đa dạng hóa sản phẩm, chú trọng quảng bá, đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam"; xây dựng thương hiệu du lịch, nâng cao chất lượng, hiệu quả các dịch vụ du lịch, xây dựng môi trường du lịch thân thiện, văn minh, bảo đảm an ninh, an toàn cho du khách để du lịch thật sự trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.

Năm là, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tiếp tục đổi mới hình thức, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến, thu hút đầu tư. Chủ động tiếp cận các tập đoàn kinh tế, các nhà đầu tư chiến lược. Tiếp tục kiểm tra, giám sát việc thực hiện các dự án; xử lý nghiêm túc các dự án chậm triển khai.

Sáu là, chăm lo, phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, tiền lương, giáo dục - đào tạo, y tế, dân số. Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục - đào tạo cho vùng khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách. Tiếp tục làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh nhất là dịch Covid-19, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh. Quản lý chặt chẽ thuốc chữa bệnh, hành nghề y dược tư nhân; bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Chăm lo đời sống người có công với cách mạng; giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững. Thực hiện tốt Cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh. Phát triển phong trào thể dục, thể thao trong mọi tầng lớp nhân dân và thể thao thành tích cao của tỉnh.

Bảy là, tiếp tục cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, tổ chức vận hành có hiệu quả Trung tâm phục vụ hành chính công; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tăng cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; quyết liệt phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện nghiêm các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị về đổi mới, sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Siết chặt kỷ luật hành chính, tăng cường thanh tra công vụ.

Tám là, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tích cực đấu tranh phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội nhất là đấu tranh, triệt phá các đường dây buôn bán, vận chuyển ma túy xuyên quốc gia; thực hiện các giải pháp bảo đảm an toàn giao thông, phòng chống cháy nổ, ngăn chặn hiệu quả hoạt động tín dụng đen, dịch vụ thu nợ, đòi nợ thuê./.

Nguồn: Ngụy Khắc Chiến, Cục Thống kê tỉnh Nghệ An

Link: http://www.thongke.nghean.gov.vn/wps/portal/cucthongke/!ut/p/c5/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3i_MG9_TxPDUGcnPyczA09HU6NQYw8PY38XY6B8JJJ8kI-pi4GnmamFsbGRm5OrgSEB3eEg-_DrB8kb4ACOBvp-Hvm5qfqR-lHmuOwJDjbQj8xJTU9MrtQvyI0wyDIJVQQAq6Joqw!!/dl3/d3/L0lJSklna2shL0lCakFBTXlBQkVSQ0lBISEvWUZOQzFOS18yN3chLzdfTlZLT0k0MVVDQk5CNjBJQTUyVTNISDNTUzA!/?WCM_PORTLET=PC_7_NVKOI41UCBNB60IA52U3HH3SS0_WCM&WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/web+content+cuc+thong+ke/ctk/ttsk/tcn/c1ecb1804fededeb8d29ad925f192426


Bài viết khác