Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự học tiếng anh của sinh viên năm thứ nhất trường ĐH Kinh tế Nghệ An

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC  TIẾNG ANH CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ NGHỆ AN

 

Tóm Tắt: Hoạt động tự học có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình daỵ học, nhận thức, đặc biệt trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ.Tuy nhiên, sinh viên vẫn còn rất nhiều vướng mắc, khó khăn khi học tập, chưa thực sự dành nhiều thời gian cho việc tự học, chưa xây dựng và rèn luyện kĩ năng tự học hợp lí. Bài báo đi sâu các vấn đề: Vị trí, vai trò của tự học đối với quá trình học tập, nhận thức của sinh viên, các yếu tố thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên theo phương thức đào tạo theo tín chỉ, đặc điểm hoạt động tự học  ở trường Đại học, và đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Kinh tế Nghệ An.

 

 

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đào tạo theo hệ thống tín chỉ là một phương thức đào tạo có nhiều ưu thế so với phương thức đào tạo truyền thống. Các nước có nền giáo dục đại học tiên tiến, phương thức này đã được thực hiện từ lâu. Ở Việt Nam, Bộ giáo dục và Đào tạo  đã có quy chế 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/08/2007 quy định đào tạo theo hệ thống tin chỉ (HTTC). Theo kế hoạch của Bộ giáo dục đào tạo, từ năm học 2010-2011 trở đi, các trường Đại học đã từng bước thực hiện chuyển đổi từ đào tạo theo phương thức truyền thống sang đào tạo theo HTTC.

Việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên là hoạt động vô cùng cần thiết, mặc dù đã làm quen với hình thức tín chỉ, nhưng sinh viên vẫn gặp một số khó khăn do chưa thực sự tìm ra phương pháp học tập hiệu quả nhất khi học theo hình thức này. Sinh viên vẫn còn rất nhiều vướng mắc, khó khăn khi học tập, chưa thực sự dành nhiều thời gian cho việc tự học, chưa xây dựng và rèn luyện kĩ năng tự học hợp lí. Do vậy, vấn đề nghiên cứu các giải pháp phát huy hiệụ quả   hoạt động tự học của sinh viên khi học theo phương thức tín chỉ ngay từ những năm đầu là vấn đề cần được quan tâm.

II. NỘI DUNG

1.Hoạt động tự học của sinh viên

1.1.Khái niệm

Trong các giáo trình, tài liệu, các tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về tự học, sau đây là một số định nghĩa cơ bản:

- Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự học. Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng , kỹ xảo của chủ thể.

- Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hoàn thành các nhiệm vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy”

- Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy học đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã được qui định.

1.2.Vị trí, vai trò của tự học đối với quá trình học tập, nhận thức của sinh viên

1.2.1.Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học

Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học (DH), nhiệm vụ của giảng viên (GV) không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, không chỉ yêu cầu SV ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho SV tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. GV đóng vai trò là người cố vấn, hướng dẫn sinh viên lĩnh hội kiến thức. Giúp SV không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: càng học lên cao thì tự học càng cần được coi trọng, nói tới phương pháp dạy học đại học  thì cốt lõi chính là dạy tự học. Phương pháp tự học là cầu nối giữa học tập và nghiên cứu khoa học. Bởi vì SV đại học không phải là những học sinh cấp bốn. Họ cần có thói quen nghiên cứu khoa học, mà để có được thói quen ấy thì không thể không thông qua con đường tự học. Muốn thành công trên bước đường học tập và nghiên cứu thì phải có khả năng phát hiện và tự giải quyết những vấn đề mà cuộc sống, khoa học đặt ra.

1.2.2. Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập

Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp người năng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập.

1.2.3.Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời

Học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế – xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Cốt lôi của quá trình dạy học là dạy chongười học cách tự học. Điều đó sẽ giúp họ có thể linh động trong mọi tính huống. Ngoài việc nâng cao kết quả học tập, tự học còn tạo điều kiện hình thành và rèn luyện khả năng hoạt động độc lập, sáng tạo của mỗi người, trên cơ sở đó tạo điều kiện và cơ hội học tập suốt đời.

1.3. Dạy phương pháp tự học tiếng Anh cho sinh viên

  Ngoài những nội dung và phương pháp chung được trình bày ở trên mỗi môn học, mỗi đối tượng đều có những đặc thù riêng. Với GV cũng vậy, cũng với những phương pháp giống nhau nhưng cách sử dụng của mỗi người ở những thời điểm cũng có sự khác nhau. Do vậy, việc tìm ra những cách thức dạy tự học cụ thể cho từng lĩnh vực là công việc rất có ý nghĩa. Tâm lí chung với đối tượng SV các chuyên ngành thuộc khối kinh tế-kỹ thuật thường ngại  môn tiếng Anh, một phần do không thuộc sở trường, một phần quĩ thời gian ngày càng eo hẹp, việc học các học phần này thường chiếm nhiều thời gian.

 Từ đặc thù của bộ môn, qua nghiên cứu các tài liệu về phương pháp dạy học và thực tế giảng dạy nhiều năm chúng tôi đã rút ra bốn vấn đề cốt lõi có thể áp dụng trong quá trình dạy tự học cho SV. Đó là:

1.3.1. Dạy cách lập kế hoạch học tập

Trên cơ sở đề cương môn học, vào đầu mỗi học phần, GV cần hướng dẫn SV lập kế hoạch học tập sao cho kế hoạch đó phải ở trong tầm với của mình, phù hợp với điều kiện của mình. Tất nhiên, sinh viên có thể điều chỉnh khi điều kiện thay đổi. giảng viên cần quán triệt để SV hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng trên những mục tiêu cụ thể và hoàn toàn phấn đấu thực hiện được. Trong đó, sinh  viên cần có sự phân biệt rõ việc chính việc phụ, việc làm ngay và việc làm sau. Sinh  viên  từng bước góp nhặt tri thức, tích lũy kết quả học tập một cách bền vững. Việc sử dụng và tận dụng tốt quĩ thời gian cũng cần được đặt ra để sinh viên không phải bị động trước khối lượng các môn học cũng như áp lực công việc.

1.3.2. Dạy phương pháp tự học tiếng Anh:

Tiếng Anh là một môn học tích hợp nhiều kỹ năng: nghe, nói đọc, viết. Điều quan trọng trước tiên là GV cần truyền đạt cho SV những nguyên tắc chính của hoạt động tự học tiếng Anh ví dụ như: Nghe là nguyên tắc quan trọng nhất, không nên học các từ riêng biệt, học ngữ pháp, từ vựng trong ngữ cảnh v…v.

Sinh viên phải rèn luyện để có khả năng huy động vốn từ, sử dụng tốc độ ghi chép nhanh bằng các hình thức viết tắt, gạch chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính, các chủ điểm ngữ pháp quan trọng mà GV nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần là điều vô cùng cần thiết. Ngoài ra, trong quá trình học tập trên lớp, nếu có vấn đề nào không hiểu cần đánh dấu để hỏi ngay sau khi GV ngừng giảng nhằm đào sâu kiến thức và tiết kiệm thời gian. Rất tiếc, trên thực tế đây là điểm yếu mà phần lớn SV không quan tâm rèn luyện để có được.

 1.3.3.Dạy cách học bài

    Vấn đề mấu chốt theo quan điểm của chúng tôi chính là dạy cách học bài. GV cần giới thiệu và hướng dẫn cho SV tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom. Tức là học cách phân tích, tổng hợp, học vận dụng tri thức vào từng tình huống thực tiễn, học nhận xét đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức… Bên cạnh đó sinh viên cần rèn luyện năng lực tư duy logic, tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo để tìm ra những hướng tiếp cận mới các vấn đề khoa học.

     Việc đưa ra các tình huống ngôn ngữ gắn với thực tiễn đời sống xã hội là một nhân tố quan trọng trong dạy học tiếng Anh. GV cần cho những tình huống sau mỗi bài/ chương/ mục và yêu cầu SV chuẩn bị trước. Sau đó tùy tình hình để cho từng cá nhân hay từng nhóm (cả lớp) thảo luận, giải quyết.

      Một trong những hình thức giúp SV làm việc nhóm tốt nhất là tạo cơ hội cho các em diễn ngôn trực tiếp. Sinh viên có thể học hỏi lẫn nhau từ cách lấy dẫn chứng để chứng minh một vấn đề, giải thích, phản biện, nêu quan điểm ý tưởng hay thuyết trình, giới thiệu, tổng thuật một sự kiện, một vấn đề khoa học hoặc đơn giản chỉ là sự bày tỏ chính kiến trước một hiện tượng. Thông qua đó, người dạy cũng có thể nắm được mức độ nhận thức của SV để có sự bổ sung điều chỉnh hợp lí, kịp thời. Đảm bảo chất lượng giờ giảng luôn được cải thiện theo hướng tích cực.

      Những vấn đề cốt lõi nêu trên chỉ là những chỉ dẫn cần thiết, mang tính định hướng. Còn việc vận dụng ra sao còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Sự cố gắng đầy ý chí nghị lực của người học, sự mẫn cán tận tâm và chu toàn của người dạy cùng những điều kiện tiên quyết khác.

1.4. Các yếu tố thúc đẩy hoạt động tự học của sinh viên theo phương thức đào tạo theo tín chỉ

Hoạt động tự học của sinh viên như đã phân tích trên đây là do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan.
1.4.1.Vai trò của giảng viên đối với hoạt động tự học của sinh viên theo phương thức đào tạo theo tín chỉ

Vai trò của giảng viên trong việc trợ giúp và tạo điều kiện phát triển hoạt động tự học là rất quan trọng và đòi hỏi nhiều nổ lực. Như vậy, tự học không có nghĩa là học không cần giảng viên hay giảng viên trở nên dư thừa và từ bỏ việc kiểm soát những gì đang diễn ra trong quá trình học. Giáo sư Cao Xuân Hạo trong bài “Bàn về chuyện tự học” đâ viết, “theo lời một nhà văn Pháp mà tôi không nhớ tên, nói rằng xưa nay chưa có và không thể có người nào thực sự tự học cả. Và chỉ có những kẻ cực kỳ hợm hĩnh và vô ân mới có thể nói khoác rằng minh là người tự học”. Và theo ông “tự học ở đây chỉ cái phần tích cực, chủ động, quyết đoán của người học. Vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của quá trình học tập là vai trò của người học, tuy vai trò của người dạy không phải không quan trọng.”Holmes và Ramos (1991) cũng khẳng định, “để giúp người học kiểm soát được việc học của chính mình rất quan trọng, phải giúp họ trở nên có tri thức và xác định được chiến lược mà họ đã từng sử dụng hoặc có thể sẽ sử dụng”. Và chính giảng viên sẽ là người thực hiện vai trò này. giảng viên trước hết phải giúp sinh viên nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc tự học, tiếp đến cung cấp cho sinh viên kiến thức về cách học ngoại ngữ và hướng dẫn họ tự học có hiệu quả. Ngoài ra, chúng ta nên lưu ý rằng tự học là một quá trình không phải là một sản phẩm, và sẽ phải mất rất nhiều thời gian để phát triển khả năng này. Như vậy, không thể trông đợi người học có thể trong một thời gian ngắn chuyển sang cách học tự học mà không cần thời gian hay không gặp một khó khăn nào.

Trong dạy học người giảng viên không chỉ là người nêu rõ mục đích mà quan trọng hơn là khơi gợi động cơ học tập cho sinh viên. Điều này làm cho sinh viên nhận thức được những mục đích đặt ra và tạo được động lực bên trong giúp sinh viên học tập tự giác, tích cực chủ động sáng tạo.Thông qua việc dạy học của thầy, sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành năng lực và thế giới quan. Từ đó mà phương pháp tự học của sinh viên được hình thành kéo theo đó là sự hình thành và phát triển năng lực tự học của sinh viên.

Giảng viên đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc định hướng và kích thích ý thức tự học cho sinh viên.Giảng viên không chỉ có nhiệm vụ quan trọng trong những giờ lên lớp mà còn trong những giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Hơn nữa, đối với hoạt động tự học của sinh viên, giảng viên phải quan tâm hơn.Giảng viên là người cố vấn, định hướng cho sinh viên trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Đối với hoạt động tự học, giảng viên cần kịp thời tư vấn khi sinh viên cần. Giảng viên là người dẫn dắt sinh viên trong quá trình linh hội tri thức.Một số nhiệm vụ chính của giảng viên đối với hoạt động tự học của sinh viên

* Giúp sinh viên nắm được đề cương mônhọc 
Khi bắt đầu một môn học, giảng viên cần giới thiệu và cung cấp cho sinh viên đề cương của môn học đó. Qua đó, sinh viên chủ động lên kế hoạch tự học, tự nghiên cứu để thực hiện được các mục tiêu của môn học. Giảng viên cần phải tuân thủ theo đúng kế hoạch trong đề cương và yêu cầu sinh viên nghiêm túc thực hiện đề cương này. 
* Xác định rõ nội dung tự học và phương tiện để thực hiện nội dung đó 
Trong đào tạo theo tín chỉ, nội dung N2, N3 như đã đề cập ở trên là những nội dung của hoạt động tự học. Giảng viên cần thiết kế các nhiệm vụ tự học cụ thể cho sinh viên để họ có thể tự chiếm lĩnh được các nội dung này, đáp ứng mục tiêu và yêu cầu của từng bài học trong một khoảng thời gian định trước. Để giúp sinh viên thực hiện được nhiệm vụ tự học của mình, giảng viên cần giới thiệu đầy đủ các tài liệu bắt buộc, tài liệu tham khảo, cách thu thập, tra cứu và xử lý thông tin trong tài liệu với những hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Bên cạnh đó, giảng viên cần tăng cường hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên xây dựng kế hoạch tự học khoa học, hợp lý, phù hợp với điều kiện của mình để đạt tới đích một cách hiệu quả..
* Kiểm tra - đánh giá hoạt động tự học của sinh viên

Đánh giá trong giáo dục là vấn đề có tính phát triển và có tác động trực tiếp đến hoạt động dạy và học. Rowntree (1987) đã nhận thức được tầm quan trọng của đánh giá khi cho rằng “Nếu muốn biết thực chất của một nền giáo dục, hãy nhìn vào cách đánh giá của nền giáo dục đó”. Đánh giá trong trường học gồm đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ nhằm giúp sinh viên cải thiện kết quả, phương pháp học tập và đồng thời cung cấp cơ sở cho giáo viên cải tiến phương pháp và chương trình, tài liệu giảng dạy (Brown, 2008; Haris & Brown, 2009; Shohamy, 2001). Đánh giá định kỳ thường diễn ra cuối học kỳ hoặc một thời gian học tương đối và thường có sử dụng test. Việc sử dụng đánh giá định kỳ thường không cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời và hữu ích cho quá trình cải thiện chất lượng học và dạy ngoại ngữ bằng các hoạt động đánh giá thường xuyên (Brown, Kenedy, Fok, Chan & Yu,2009). 
Trong phương thức đào tạo theo tín chỉ, khi hoạt động tự học là một thành phần bắt buộc trong cơ cấu thời khóa biểu thì cần phải có các hình thức kiểm tra - đánh giá hoạt động này. Nếu giảng viên chỉ giao nhiệm vụ tự học mà không tổ chức kiểm tra, đánh giá thì hoạt động học tập này chỉ mang tính hình thức, đối phó mà không đem lại kết quả như mong muốn. Giảng viên thường xuyên sử dụng một trong hai hinh thức đánh giá là dánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ. Giảng viên thường xuyên đánh giá sinh viên trong suốt quá trình của môn học thông qua các hình thức kiểm tra đa dạng như bài tập cá nhân (tuần); bài tập nhóm (tháng); bài tập lớn (học kỳ thông thường là một bài tổng luận về môn học) và các bài thi giữa kỳ, cuối kỳ. Qua đó hình thành cho sinh viên cách làm việc nghiêm túc, tính tích cực và ý chí phấn đấu vươn lên để đạt kết quả cao trong học tập 

  1.  

Ngoài sự hướng dẫn của giảng viên, sự quản lý của nhà trường thì yếu tố then chốt, đóng vai trò quan trọng là sự nỗ lực của sinh viên Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải thay đổi nhận thức, xóa bỏ sức ỳ để có những phương pháp học tập tích cực, thái độ tự chủ- tự chịu trách nhiệm nhằm thích ứng với những yêu cầu học tập mới.

Ý thức học tập và động cơ nhận thức có ý nghĩa quyết định trong quá trình hình thành và phát triển năng lực tự học của sinh viên. Vì xét cho cùng chất lượng học tập phải là kết quả trực tiếp của sự nỗ lực của chính bản thân người học. Nếu người học không xác định được vai trò quyết định của mình trong sự thành bại của sự học, thì không bao giờ tự học thành công.Chỉ khi đã xác định được mục đích và động cơ học tập đúng đắn. Sinh viên mới có thể phát huy được “nội lực” trong học tập, từ đó kết hợp các yếu tố “ngoại lực” khác để tổ chức các hoạt động học tập diễn ra một cách hợp lí và thu được kết quả cao. 
 1.4.3.Vai trò của các điều kiện phục vụ tự học của sinh viên 
     Hoạt động tự học của sinh viên không thể thực hiện tốt nếu không đảm bảo các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất: phòng học, trang thiết bị học tập, nguồn học liệu v..v… Trong đó, hệ thống nguồn học liệu đầy đủ về số lượng, phong phú về nội dung và chuẩn mực về chất lượng là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tự học của sinh viên.
1.5.Đặc điểm hoạt động tự học  ở trường Đại học

Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu đào tạo của các trường đại học là: "Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nghiệp vụ, có trình độ, có lý tưởng cách mạng, có quyết tâm vươn tới những đỉnh cao của văn hoá, khoa học hoặc chỉ đạo việc thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn do mình phụ trách, có tiềm lực để từng bước tiến hành giải quyết các vấn đề thực tiễn do cuộc sống đặt ra trong phạm vi "nghề nghiệp" của mình và với phương châm "biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo" ( Theo Phan Bích Ngọc (1/2014)).Trên ý nghĩa đó, việc tự học của sinh viên không còn giống tự học của học sinh phổ thông. Học đại học là đi sâu vào một chuyên ngành để chuẩn bị cho một nghề trong tương lai.Sinh viên học theo định hướng nghề nghiệp đã có sẵn. Do đó, người sinh viên phải tự trang bị cho mình những hiểu biết cơ bản, vững vàng về nghề đó, đồng thời phải có nhiều hiểu biết khác nữa theo yêu cầu của cuộc sống Hoạt động tự học đã trở thành một yêu cầu bắt buộc Giờ đây, công việc tự học của sinh viên trở nên rất quan trọng, rất nặng nề, nó trở thành một bộ phận cấu thành của giáo dục đại học. Do phương pháp học tập ở trường đại học khác cơ bản so với phương pháp học ở phổ thông, ở đại học không có sự kiểm tra hàng ngày của giáo viên nên việc học tập của sinh viên phần lớn là tự học. Sinh viên tự đề ra kế hoạch và tự thực hiện kế hoạch.Sinh viên phải hoàn toàn chủ động trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Các bài kiểm tra chính là kết quả học tập và nghiên cứu của sinh viên. Có nhiều sinh viên cho biết rằng 50% kiến thức là do tự học. Việc tự học của sinh viên đại học còn có một đặc điểm; đó là hoạt động tự học diễn ra liên tục, trong một phạm vi lớn nhằm lĩnh hội rất nhiều tri thức. Nếu như học sinh phổ thông được cô giáo ra những bài tập nhất định về nhà thì sinh viên đại học phải tự tìm tòi tài liệu, chọn đọc tài liệu sao cho thích hợp với môn học và phải thật sự khoa học trong hoạt động tự học mới có kết quả tốt. Thêm vào đó, việc tự học của sinh viên đại học đòi hỏi sự nỗ lực cao, tính tự giác cao hơn học sinh phổ thông; sinh viên thực sự làm chủ thời gian, phương pháp phải quan tâm đến chất lượng tự học của bản thân để từ đó có phương hướng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho mình, chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp bằng sự tự tin tuyệt đối. Hoạt động tự học - một nhân tố quan trọng đối với quá trình lĩnh hội tri thức.Do đó, ý thức tự giác , chủ động  có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tự học. Hoạt động tự học chính là lần thứ hai lĩnh hội tri thức, đó là lĩnh hội bằng sự tái tạo lại của bản thân sinh viên. Bước tái tạo này giúp sinh viên nắm chắc hơn điều đã được học, hoàn thành những chỗ khó, hệ thống hoá lại bài học trên lớp, nhờ đó tránh được "học vẹt", học mà không hiểu. Trong thực tế, hoạt động tự học còn giúp sinh viên, lĩnh hội tri thức mới, rèn luyện kỹ năng vận dụng tri thức vào cuộc sống để tự rút ra kinh nghiệm cho mình nhất là theo hình thức tín chỉ. Điều quan trọng là việc tự học còn phát triển ở sinh viên khả năng độc lập, sáng tạo trong lĩnh hội tri thức và trong hoạt động. Khi tự học, sinh viên làm quen với nhiều thuật ngữ, nhiều cách đề cập đến một vấn đề, vì vậy họ sẽ trở nên năng động hơn, tự chủ hơn trong việc tiếp thu tri thức. Qua đó có thể nói rằng tự học của sinh viên không chỉ là một nhân tố quan trọng trong lĩnh hội tri thức mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách sinh viên.

2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tự học tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Kinh tế Nghệ An.

2.1. Giảng viên

2.1.1.Trang bị kiến thức về HĐ tự học để hướng dẫn SV

GV giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động học tập, là người tổ chức, giao nhiệm vụ, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá quá trình tự học của SV. Nếu bản thân họ nhận thức đúng đắn vai trò hoat động  tự học đối với SV thì chắc chắn họ sẽ tích cực hỗ trợ SV rèn luyện HĐ ấy nhiều hơn.

 GV thường xuyên tự trao dồi kiến thức giáo dục học để có cái nhìn đầy đủ về HĐ tự học đối với sự thành công trong học tập của SV. Bên cạnh đó, để có thể tích cực giúp đỡ SV rèn luyện KN tự học bộ môn mình dạy.Đối với môn tiếng Anh, giáo viên có thể trang bị cho sinh viên những kỹ năng đọc hiểu, nghe hiểu v..v

2.1.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy, điều chỉnh phương pháp giảng dạy theo hướng tăng cường tự học cho SV

Giảng viên đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc định hướng và kích thích ý thức tự học cho sinh viên. Qua phỏng vấn, phần lớn sinh viên cho rằng việc trao đổi trực tiếp hoặc gián tiếp với giảng viên giúp bản thân các sinh viên đạt hiệu quả cao nhất trong việc tự học. Giảng viên không phải chỉ có nhiệm vụ quan trọng trong  giờ lên lớp còn giờ tự học, tự nghiên cứu của sinh viên thì không cần can thiệp. Ngược lại, đối với hoạt động tự học của sinh viên, giảng viên phải quan tâm hơn, kịp thời tư vấn khi sinh viên cần. Trong sự tương tác giữa dạy và học, phương pháp dạy chỉ đạo phương pháp học, do đó muốn SV tự học nhiều hơn thì chắc chắn GV phải thay đổi phương pháp lên lớp theo hướng tăng cường tự học.  Một số nhiệm vụ chính của giảng viên đối với hoạt động tự học của sinh viên như sau:

2.1.3. Tư vấn, hướng dẫn cách thức tự học cho SV

Tư vấn, hướng dẫn cách thức tự học là biện pháp trực tiếp và nhanh đạt hiệu quả nhất. Thông qua những chia sẻ của GV, SV sẽ dễ dàng tiếp nhận và thực hiện chúng, bởi đó là những tri thức đã được diễn đạt bằng lời và vì chính từ thầy cô giảng dạy của các em.

2.1.4. Tăng cường kiểm tra, đánh giá các nhiệm vụ tự học của SV

Trong quá trình tự học, không chỉ SV phải tự kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động của mình mà với vai trò chủ thể hoạt động dạy học, GV cũng phải tham gia vào nội dung này. Việc thầy giáo kiểm tra, đánh giá buộc SV không được lơ là khi thực hiện nhiệm vụ tự học và tích cực nỗ lực cao hơn. Đồng thời, thông qua cách thức của thầy, người học có thể học tập biện pháp tự kiểm tra, đánh giá kết quả ngoài lớp cho bản thân.

Giảng viên cũng cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá các nội dung yêu cầu tự học, có thể sau mỗi bài, mỗi chương, hay một phần kiến thức lớn. Các hình thức kiểm tra, đánh giá quá trình tự học của SV được sử dụng đa dạng như: đàm thoại, trắc nghiệm, tự luận, game show (ôn tập), tiểu luận,…Nội dung kiểm tra, đánh giá phải phản ánh được mức độ yêu cầu lĩnh hội tri thức từng phần cụ thể. Kết quả cần phải ghi nhận một cách chính thức, tránh thái độ xem nhẹ kết quả quá trình tự học ở SV.

2.2. Sinh viên

Dù với bất cứ lí do gì thì sinh viên – người học cũng vẫn là người có vai trò quyết định tới quá trình học tập của mình. Do vậy, sinh viên phải tích cực, chủ động cho việc học. Sinh viên không chỉ học một cách thụ động những gì giảng viên yêu cầu hoặc làm theo những gì được chỉ dẫn mà họ phải tìm ra những phương pháp học tập riêng phù hợp với hoàn cảnh và trình độ của mình.  

Việc rèn luyện kỹ năng tự học còn phụ thuộc vào chính bản thân mỗi sinh viên trong việc đổi mới nhận thức việc học của mình. Bên cạnh sự hướng dẫn của giảng viên, sự quản lý của nhà trường thì hoạt động tự học chỉ có thể thực sự đem lại hiệu quả khi có sự nỗ lực của bản thân chủ thể tham gia, đó chính là sinh viên. Khi chuyển sang phương thức đào tạo theo tín chỉ, sinh viên phải thay đổi nhận thức, xóa bỏ sức ỳ để có những phương pháp học tập tích cực, thái độ tự chủ- tự chịu trách nhiệm nhằm thích ứng với những yêu cầu học tập mới.

- Chuẩn bị tốt về động cơ, thái độ học tập, tinh thần trách nhiệm, tự lực cánh sinh để “ tự chủ, tự chịu trách nhiệm “ trong học tập một cách chủ động và hiệu quả. Có động cơ tốt, hứng thú thì người học sẽ tích cực chủ động hoc tập một cách hiệu quả nhất..

2.3.Tổ bộ môn ngoại ngữ

-Tổ bộ môn nên thường xuyên tổ chức seminar, hội nghị học tốt, bàn về các phương pháp tự học tiếng Anh,

- Tổ bộ môn tăng cường tập huấn, đào tạo cho giảng viên phương pháp dạy học tích cực         

2.4. Cố vấn học tập

Cố vấn học tập cần phát huy vai trò và trách nhiệm của mình. Tư vấn và hướng dẫn kỹ năng tự học không chỉ được thực hiện bởi các GV bộ môn, trực tiếp phụ trách môn học mà còn là lực lượng GV kiêm nhiệm công tác cố vấn học tập. Các cố vấn học tập có thể thiết lập lịch làm việc riêng cố định trong tuần để gặp gỡ SV và tư vấn các vấn đề học tập, đặc biệt là KN tự học cho SV. Cố vấn học tập không nhất thiết phải hướng dẫn cách thức học cho từng môn cụ thể nhưng có thể chỉ dẫn về các HĐ tự học nói chung.

2.5. Nhà trường

Tăng cường các điều kiện phục vụ tự học của sinh viên Khi ý thức tự học của sinh viên đã được nâng cao thì kéo theo nhu cầu tìm kiếm tài liệu, khai thác thông tin. Khi đó, các điều kiện phục vụ tự học như: phòng học, trang thiết bị học tập, nguồn học liệu tiếng Anh… cũng cần được đảm bảo. Trong đó hệ thống nguồn học liệu đầy đủ về số lượng, phong phú về nội dung và chuẩn mực về chất lượng là một yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động tự học TA của sinh viên. Nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố này, các nhà trường cần có kế hoạch để không ngừng cải thiện điều kiện cơ sở vật chất của mình như: 
- Củng cố, nâng cấp, mở rộng hệ thống phòng học, phòng lab, thư viện; bám sát yêu cầu cúa các đề cương môn học để chuẩn bị các học liệu được coi là bắt buộc ghi trong đề cương môn học 
- Tăng cường khả năng khai thác các tiện ích của mạng nội bộ, mở rộng nguồn tư liệu điện tử, thiết bị dạy học vv… bằng cách ứng dụng các thành tựu công nghệ thông tin hiện đại. 

Ngoài các điều kiện về cơ sở vật chất, khi xem xét các điều kiện phục vụ hoạt động tự học, các nhà quản lý cũng cần quan tâm tới các điều kiện phục vụ, thái độ phục vụ sinh viên của các bộ phận chuyên trách, các chính sách hỗ trợ của nhà trường để tạo cho sinh viên một môi trường học tập tốt nhất. 

2.6. Các tổ chức Đoàn TN- Hội SV

-Tổ chức các chuyên đề về các HĐ  tự học cho SV, đặc biệt là đối tượng tân SV

Qua tham dự các chuyên đề HĐ tự học, SV nâng cao nhận thức vai trò của HĐ tự học này, biết được những cách thức rèn luyện HĐ tự học hiệu quả.

Thời gian tổ chức tập huấn các HĐ tự học là đầu mỗi năm học với đối tượng chủ yếu là tân SV.Báo cáo viên được mời từ các GV tâm lý – giáo dục có kinh nghiệm trong lĩnh vực này hoặc là các GV phụ trách bộ môn, các SV từng có thành tích học tập xuất sắc cũng có thể đến chia sẻ các bí quyết tự học tốt.

-Tổ chức các cuộc thi về HĐ tự học

Thi đua trong giáo dục là phương pháp có nhiều ưu điểm và thường mang lại hiệu quả cao.Trong rèn luyện HĐ tự học ngoài lớp, càng cần phát huy phương pháp này. Khi SV bị lôi cuốn vào những cuộc thi, họ hang hái nỗ lực rèn luyện HĐ tự học và thúc giục các thành viên khác trong tập thể cùng làm như thế để giành chiến thắng.

Nội dung các cuộc thi gắn bó chặt chẽ với việc thực hành và phát triển các HĐ tự học tiếng Anh của SV. Tạo sự đa dạng của cuộc thi bằng cách kết hợp nhiều hình thức thi, có thể tổ chức thi trắc nghiệm ở vòng loại để chọn ra một số đội tham gia thi trắc nghiệm

III. KẾT LUẬN

HĐ tự học là  một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động học tập ở đại học của SV. Ngoài ra, HĐ tự học còn giúp người học có thể chủ động học tập suốt đời, trau dồi kiến thức chuyên môn, luôn luôn muốn khám phá kiến thức mới.  Người  học tự bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ trong suốt cuộc đời và hình thành các KN tự học trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Các HĐ tự học  có thể được hình thành bằng con đường đào tạo, huấn luyện và tự rèn luyện.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Brown,G.T.L,(2008).Conceptions  of assessment:Understanding what assessment means to teacher and students. Psychological Report,99,166-170.
  2. Cao Xuân Hạo (2001), Bàn về chuyện tự học , Kiến thức ngày nay số 396
  3. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thị Đức (2003),  Lý luận dạy học đại học, Đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh
  4. Phan Bích Ngọc (1/2014), Tự học của SV- yếu tố cơ bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các trường ĐH theo học chế tín chỉ, Tạp chí Giáo Dục số 325/ kì 1
  5. Retxke R. (1994), Học tập hợp lí, Nxb Đại học Công nghệ, Hà Nội.
  6. Rubankin N.A. (2002), Tự học như thế nào, Nxb Trẻ, TP. HCM.

 

Tin Bài: Nguyễn Thị Hoài Ly - Tổ Ngoại Ngữ

 

 


Bài viết khác