Quyền bí mật đời tư được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật nhiều nước trên thế giới và được ghi nhận trong các điều ước quốc tế quan trọng. Thời gian qua, Việt Nam đã rất nỗ lực xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh và đầy đủ để điều chỉnh về vấn đề này. Tuy nhiên với sự phát triển của công nghệ thông tin, cụ thể là các trang mạng xã hội, thì việc xâm phạm quyền riêng tư diễn ra phổ biến hơn. Đặc biệt, nó diễn ra giữa các thành viên trong gia đình trong việc quản lý thông tin, điện thoại, theo dõi, thư tín hay việc chia sẻ các hình ảnh thông tin lên mạng xã hội một cách thường xuyên và phổ biến. Tất cả các hành vi trên có thể xem là xâm phạm quyền riêng tư của cá nhân cho dù họ là các thành viên trong gia đình, tuy nhiên pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa có những quy định pháp lý cụ thể để điều chỉnh vấn đề này. Do đó, bài viết tập trung phân tích một số vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền riêng tư của các thành viên trong gia đình và đề xuất các giải pháp hoàn thiện
Quy định của pháp luật về quyền riêng tư
Quyền riêng tư là một trong những quyền nhân thân cơ bản nhất của con người, có mối quan hệ mật thiết với các quyền khác như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do kết hôn,… Có rất nhiều cách hiểu và tiếp cận khác nhau liên quan đến quyền riêng tư, hiểu một cách đơn giản quyền riêng tư được hiểu là những gì thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân (thông tin, tư liệu, không gian riêng,…) và được người khác tôn trọng, với một sự can thiệp ít nhất từ bên ngoài. Hiểu theo nghĩa khái quát hơn thì tất cả các quyền con người đều có khía cạnh riêng của quyền riêng tư, theo đó quyền riêng tư được nhận thức dưới 04 khía cạnh chủ yếu bao gồm: Một là, sự riêng tư về thông tin cá nhân như thông tin y tế, tín dụng, hồ sơ chính quyền lưu trữ của công dân; Hai là, sự riêng tư về cơ thể: liên quan đến việc bảo vệ thân thể của người dân đối với hình thức xâm hại như xét nghiệm di truyền, thử nghiệm ma túy và thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể; Ba là, sự riêng tư về thông tin liên lạc: bao gồm bảo mật và riêng tư về thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình thức truyền thông khác; Bốn là, sự riêng tư về nơi cư trú: liên quan đến việc ban hành các giới hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống của cá nhân, nơi làm việc hoặc không gian công cộng.
Quyền riêng tư trước hết được đề cập trong Điều 12 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR): "không ai phải chịu sự can thiệp một cách tuỳ tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy." Quyền bảo vệ đời tư được nhắc đến từ khá lâu. Trong hiến pháp quốc gia của trên 150 nước đề cập tới quyền này.
Ở Việt Nam, đã công nhận và bảo hộ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong các văn bản pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự và pháp luật chuyên ngành, cụ thể:
Điều 21 Hiến pháp năm 2013 có quy định “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn;
2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác. Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.”
Bên cạnh Hiến pháp, Bộ luật Dân sự đã thể chế hóa những quy định của Hiến pháp thành các quy định dân sự cụ thể. Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “1. Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. 2. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên gia đình đồng ý, trừ trường hợp luật có quy định khác. 3. Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác chỉ được thực hiện trong trường hợp luật quy định. 4. Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”.
Khoản 2 Điều 46 Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân không được sử dụng, cung cấp hoặc tiết lộ thông tin về bí mật đời tư hoặc thông tin của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà mình tiếp cận hoặc kiểm soát được trong giao dịch điện tử nếu không được sự đồng ý của họ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Điều 16 Luật an toàn thông tin mạng năm 2015 quy định nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng, theo đó: “1. Cá nhân tự bảo vệ thông tin cá nhân của mình và tuân thủ quy định của pháp luật về cung cấp thông tin cá nhân khi sử dụng dịch vụ trên mạng. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân xử lý thông tin cá nhân có trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin mạng đối với thông tin do mình xử lý.” Nhận thức về quyền riêng tư còn được luật hóa dưới khía cạnh hình sự khi trong Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 tại Điều 159 quy định tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR). Tại Điều 17 Công ước khẳng định: “(1) Không ai bị can thiệp một cách độc đoán và bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín; hoặc bị xúc phạm một cách bất hợp pháp đến danh dự và uy tín. (2) Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại mọi sự can thiệp và xúc phạm như vậy”.
Có thể thấy rằng, những quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng như những Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên đã có sự quan tâm và điều chỉnh nhất định về quyền riêng tư của con người. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hôn nhân – gia đình quyền riêng tư lại chưa được nhìn nhận và đề cập đến một cách cụ thể và chính thống trong các quy định pháp luật Việt Nam. Trong khi đây là một trong những môi trường mà sự riêng tư dễ bị xâm phạm nhất phát sinh từ mối quan hệ hôn nhân hay giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt sự riêng tư đối với trẻ em, đối tượng dễ bị xâm phạm và gây ra hậu quả lớn.
Một số vấn đề pháp lý về quyền riêng tư của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân
Hôn nhân là sự gắn kết giữa hai cá thể độc lập nhằm hướng đến mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, bản chất của hôn nhân là sự gắn kết giữa hai cá thể độc lập, hôn nhân không làm cho vợ và chồng hòa nhập thành một chủ thể duy nhất. Vì vậy, xét dưới góc độ quyền con người, họ vẫn có đầy đủ các quyền cơ bản trong đó có quyền riêng tư. Sau khi kết hôn, nhiều cặp vợ chồng vẫn tự cho mình quyền được tự xâm phạm đến đời sống cá nhân của nhau và xem như đó như một sự chứng minh về sự trung thực và gắn bó giữa vợ chồng với nhau. Chính điều này đã dẫn đến sự xâm phạm quyền riêng tư trong chính mối quan hệ vợ chồng với nhiều hình thức rất đa dạng xâm phạm đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật thư tín, điện thoại như vợ hoặc chồng tự ý xem lén, trả lời tin nhắn, lắp các thiết bị nghe lén hay cài đặt các thiết bị định vị quản lý thông tin liên lạc của nhau; sử dụng chung tài khoản xã hội như facebook, zalo, Twitter,… để quản lý thông tin của đối phương, đăng tải thông tin, hình ảnh khi chưa được sự cho phép từ một bên vợ hoặc chồng; hay hành vi xâm phạm quyền riêng tư về tài chính, tín dụng của nhau,
Như vậy, chiếu theo những quy định trên thì những hành vi này xâm phạm đến quyền riêng tư trong quan hệ vợ chồng. Vì thế, hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sụ theo quy định tại Điều 159 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, theo đó người có hành vi “xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư của người khác” thì Phạt phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20 triệu đồng – 50 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm: Đối với hành vi xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của người khác đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; Phạt tù từ 01 - 03 năm nếu có thêm các tình tiết tăng nặng: Tiết lộ các thông tin đã chiếm đoạt, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác; Làm nạn nhân tự sát; Phạm tội có tổ chức; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Phạm tội 02 lần trở lên. Hay nhẹ hơn có thể bị xử lý hành chính hành vi xâm phạm quyền riêng tư của người khác tại Điểm a, khoản 2, Điều 51 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 với mức phạt tiền từ 1.000.000 đến 1.500.000 đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế rất khó để xử lý những hành vi này bởi một số nguyên nhân: thứ nhất, đa số bản thân vợ hoặc chồng cũng không biết được rằng hành vi của mình là hành vi trái pháp luật – xâm phạm đến quyền bí mật đời tư được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ; thứ hai, do đối tượng xâm phạm là vợ hoặc chồng của mình nên người bị xâm phạm quyền sẽ không mong muốn làm tổn hại đến người thân của mình, ảnh hưởng đến danh dự, hạnh phúc gia đình, uy tín, tài chính của cả gia đình và chính mình. Thứ ba, trên thực tế, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành không có bất kỳ quy định nào quy định về xử lý đối với hành vi “xem lén” điện thoại, điện tín, thư tín, email của vợ hoặc chồng. Do đó, nếu một bên vợ hoặc chồng chỉ “xem lén” mà không tiết lộ hoặc phát tán tư liệu, tài liệu thuộc bí mật đời tư thì rất khó xử lý.
Bảo vệ quyền riêng tư của con cái trong quan hệ gia đình
Với những trẻ nhỏ tuổi, việc đăng hình ảnh các em nhất thiết phải được cha mẹ, người giám hộ đồng ý. Tuy nhiên, vi phạm quyền riêng tư của trẻ trên môi trường mạng đa số lại đến từ cha mẹ, người thân, người giám hộ của trẻ. Hành vi của các bậc phụ huynh bắt đầu từ tình yêu với con cái, không có dụng ý xấu, nhưng vô tình lại phạm vào quy định của pháp luật về quyền riêng tư của con trẻ. Những hành vi như kiểm soát điện thoại, thư tín của trẻ hay đặc biệt là chia sẻ các thông tin của con trên mạng xã hội như đăng hình của trẻ, điểm số hay kết quả học tập của con,… mà chưa có sự đồng ý của con.
Ở nước ta, nhiều bậc cha mẹ vẫn chưa nhận thức hết các mối nguy hại mà con cái của họ phải đối mặt khi đưa hình ảnh con lên mạng cá nhân. Bởi nếu họ không cài đặt chế độ riêng tư, thì hình ảnh và thông tin của trẻ bất kỳ ai cũng có thể tìm thấy.
Ví dụ, một người mẹ đăng ảnh con đi học, mặc đồng phục rõ tên trường làm cho những kẻ xấu trên mạng có thể lần theo thông tin bạn tiết lộ trên trang cá nhân như: thường đón con muộn, hay chồng đi công tác vắng điều này vô tình đưa con trở thành mục tiêu của những kẻ bắt cóc hay tội phạm khác. Hay đưa ảnh con đang tắm (không áo quần) lên mạng cũng là hành vi nguy hiểm không kém. Kẻ xấu có thể sử dụng hình ảnh con bạn vào những mục đích khiêu dâm mà bạn không hề biết. Ngoài ra, hình ảnh đã đưa lên mạng thì thường tồn tại trên môi trường đó rất lâu, có thể khi con bạn lớn hơn, vô tình chúng nhìn thấy hình ảnh đó trên mạng, chúng sẽ xấu hổ, hoặc có tâm lý không tốt.
Luật Trẻ em năm 2016 đã có quy định cụ thể về quyền riêng tư của trẻ em: "Trẻ em có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình vì lợi ích tốt nhất của trẻ em; Trẻ em được pháp luật bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác; được bảo vệ và chống lại sự can thiệp trái pháp luật đối với thông tin riêng tư" (Điều 21).
Nghị định số 56/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em, ghi nhận: "Thông tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em là các thông tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em" (Điều 33).
Về bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em, Luật Trẻ em năm 2016 xác định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thông tin, truyền thông và tổ chức các hoạt động trên môi trường mạng phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn và bí mật đời sống riêng tư cho trẻ em theo quy định của pháp luật” (Khoản 2, Điều 54). Đồng thời, hành vi công bố, tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 7 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em là hành vi bị nghiêm cấm (Điều 6).
Hiện nay đối với những hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em chưa có một quy định pháp lý cụ thể nào về xử phạt vi phạm hành chính đối với xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em, tuy nhiên tùy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi, ta có thể căn cứ vào các văn bản pháp lý liên quan để xử lý.
Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư giữa các thành viên trong gia đình
- Thứ nhất, mặc dù một số quy định pháp luật bước đầu đã đề cập đến quyền riêng tư được bảo vệ bí mật thông tin, thư từ, điện thoại,... nhưng vẫn còn ở mức độ khái quát cao, còn thiếu chế tài xử lý cụ thể liên quan đến từng đối tượng cụ thể như việc xâm phạm quyền riêng tư trong quan hệ vợ chồng, con cái lại chưa được đề cập tới. Vì vậy, Việt Nam cần có một khung pháp lý cụ thể để bảo vệ dữ liệu cá nhân và xây dựng một đạo luật riêng về bảo vệ quyền riêng tư. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới, Luật bảo vệ quyền riêng tư có thể ban hành với tư cách một luật độc lập, hoặc có các luật cụ thể gắn với từng lĩnh vực, chuyên ngành như Luật bảo vệ triêng tư tại gia đình; Luật bảo vệ quyền riêng tư trên mạng của trẻ; Luật riêng tư về tài chính,...Chúng ta có thể tham khảo một số mô hình trên thế giới đã thực hiện và chứng minh tính hiệu quả áp dụng phù hợp với điều kiện pháp lý và xã hội tại Việt Nam.
- Thứ hai, cần sớm ban hành quy định cụ thể hóa một số quy định của Bộ luật dân sựu 2015 đối với quyền bí mật đời tư” hay đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình” nhằm xác định giới hạn những thông tin, dữ liệu cá nhân, được xem là bí mật” và đặc biệt cần sớm ban hành các quy định pháp lý cụ thể về xử lý các hành vi xâm phạm đến sự riêng tư của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân hay hành vi xâm phạm quyền riêng tư của trẻ em bởi đây là những đối tượng đặc thù dễ bị xâm phạm nhất.
Ngoài ra, quan trọng nhất trong quan hệ gia đình giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái và giữa các thành viên trong gia đình hơn ai hết cần có trách nhiệm tôn trọng quyền riêng tư của các thành viên trong gia đình; cha mẹ có trách nhiệm giáo dục kiến thức, hướng dẫn kỹ năng để trẻ em biết tự bảo vệ quyền riêng tư của mình khi tham gia môi trường mạng lẫn cuộc sống.
Tác giả: Thạc sĩ. Nguyễn Thị Thảo