Nhìn nhận một số vấn đề bất cập giữa luật đất đai và bộ luật dân sự

         Đất đai là nền tảng để hình thành và phát triển của mỗi quốc gia, mỗi vùng, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống bao gồm các ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, đời sống văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng,  chính trị, ....

         Điều 53 và khoản 1, điều 54 hiến pháp 2013 quy định: “ Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản khác do nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước dại diện làm chủ sở hữu và thống nhất quản lý” và “ đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, được quản lý theo pháp luật”. Nhưng thực tế giữa các quy định pháp luật trong lĩnh vực đất đai hiện phát sinh một số vấn đề mâu thuẫn với nhau và với cả các luật có liên quan điều này gây khó khăn cho người dân khi thực hiện quyền và các cơ quan trong việc thực thi, áp dụng pháp luật khi giải quyết các vấn đề  liên quan tới đất đai.

1, Những điểm mâu thuẫn

         Luật Đất đai năm 2013 có một số quy định trái với Bộ luật Dân sự năm 2015. Chẳng hạn, Luật Đất đai năm 2013 quy định, hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất (QSDĐ) trồng lúa. Trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cho phép vì QSDĐ trồng lúa cũng là tài sản nên cá nhân có quyền nhận, cho, tặng, thừa kế

           Điều 609, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Trong khi đó, Khoản 3, Điều 191, Luật Đất đai năm 2013 quy định, hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho QSDĐ trồng lúa rõ ràng nội dung trên trong 2 luật có sự đối nghịch, không đồng nhất, một bên cho và một bên cấm. Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép và khẳng định đó là quyền được Hiến pháp bảo hộ nên hộ gia đình, cá nhân dù không trực tiếp làm nông nghiệp thì vẫn được quyền nhận tặng cho QSDĐ trồng lúa. Còn nếu áp dụng Luật Đất đai thì dẫn tới việc khi cha mẹ có tài sản là đất trồng lúa mà con không phải là người trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì không được nhận tài sản này nếu được cha mẹ tặng cho, thừa kế. Quy định này của Luật Đất đai làm hạn chế, triệt tiêu quyền tặng cho, để lại di sản của cá nhân hoặc quyền được nhận tặng cho, thừa kế là QSDĐ trồng lúa từ người khác quả là bất cập nên cần sớm sửa đổi cho phù hợp.

          Theo Khoản 2, Điều 191 Luật Đất đai năm 2013 quy định, tổ chức kinh tế không được nhận chuyển nhượng QSDĐ trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển mục đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Việc Luật Đất đai hạn chế quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu về sử dụng đất của các tổ chức kinh tế có điều kiện về tài chính, kỹ thuật, mong muốn được đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Đây là nhu cầu chính đáng, phù hợp xu thế sản xuất quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao nhưng hiện tại luật chưa cho phép. Do đó, cần chỉnh sửa lại cho phù hợp và sát thực tiễn.

2, Thiếu sự đồng nhất giữa các văn bản luật

           Hiện các văn bản hướng dẫn Luật Đất đai năm 2013 còn có tình trạng cùng một nội dung nhưng lại quy định khác nhau như tại Khoản 2, Điều 77, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, quy định sau 30 ngày kể từ ngày niêm yết thông báo về việc mất giấy chứng nhận QSDĐ mới nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận.

           Tuy nhiên, tại Điểm b, Khoản 2, Điều 10 Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT ngày 19-5-2014 của Bộ TN-MT quy định về hồ sơ địa chính quy định thời gian niêm yết là 15 ngày. Điều này gây khó khăn cho địa phương trong thực hiện các thủ tục đất đai cho người dân.

          Tại Điểm b, Khoản 1, Điều 16, Luật Đất đai năm 2013 quy định, trường hợp Nhà nước quyết định việc thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai. Tuy nhiên, tại Điểm a, Khoản 2, Điều 71 của luật này chỉ quy định, trường hợp cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư mà không quy định cưỡng chế đối với trường hợp thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai.

         Ngoài ra, Khoản 1, Điều 58 Luật Đất đai năm 2013 quy định, đối với dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng vào các mục đích khác mà không thuộc trường hợp được Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất khi có một trong các văn bản sau đây: văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng từ 10ha đất trồng lúa trở lên; từ 20ha đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng trở lên (điểm a); Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh đối với trường hợp chuyển mục đích sử dụng dưới 10ha đất trồng lúa; dưới 20ha đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng (điểm b).

          Như vậy Luật Đất đai năm 2013 chỉ cho phép việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải có Nghị quyết của HĐND tỉnh, mà Nghị quyết HĐND tỉnh chỉ cho phép chuyển mục đích sử dụng đất lúa dưới 10ha/dự án; đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ dưới 20ha/dự án. Vấn đề bất cập ở đây là HĐND các tỉnh, thành có thể “lách luật” bằng cách ban hành nhiều nghị quyết cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong 1 năm, nhiệm kỳ với nhiều dự án trên một khu đất rộng hàng chục hoặc hàng trăm ha, việc xé nhỏ này sẽ thuận lợi hơn trong chuyển mục đích sử dụng đất với những dự án có diện tích từ 10ha/dự án trở lên đối với đất lúa và trên 20 ha/dự án đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, để lách quy định xin ý kiến và phải có văn bản chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.

         Từ nhưng quy định còn trái nhau và bất cập trong quy định của Luật Đất đai dẫn đên công tác quản lý nhà nước về đất đai còn khó khăn và vướng mắc, thiết nghĩ cần chỉnh sửa theo hướng tăng quyền cho địa phương trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất, giải quyết các điểm luật mâu thuẫn với luật, giải quyết các bất đồng trong các văn bản luật với nhau./.

                                                                                                                Trần Thái Yên


Bài viết khác